CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLTTDS HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
I, Khái quát chung về người đại diện của đương sự trong TTDS
1, Khái niệm, đặc điểm, vai trò của người đại diện trong TTDS
1.1, Khái niệm, vai trò của người đại diện trong TTDS
Trong TTDS, xuất hiện hai trường hợp: Đương sự không thể tự mình tham gia tố tụng do họ chưa có năng lực hành vi TTDS; Đương sự có năng lực hành vi TTDS nhưng không tự mình tham gia. Khi đó, căn cứ theo quy định của pháp luật hoặc theo sự ủy quyền của đương sự thì người khác sẽ thay mặt đương sự để tham gia tố tụng. Có thể hiểu, định nghĩa của người đại diện của đương sự như sau: “Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự để thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng, qua đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án.”
Người đại diện của đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự đóng một vai trò rất lớn: Đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự; Có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.
Tham khảo thêm Tội gây rối trật tự công cộng là gì?
1.2, Đặc điểm của người đại diện trong TTDS
Thứ nhất, người đại diện là cá nhân hoặc pháp nhân có đủ năng lực pháp luật TTDS và năng lực hành vi TTDS. Cụ thể, pháp nhân phải được thành lập theo quy định của pháp luật. Còn cá nhân, thì chỉ khi người đó đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật TTDS, được BLTTDS quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng (năng lực pháp luật TTDS). Hơn nữa, một cá nhân muốn có khả năng thực hiện chức năng đại diện phải có đủ năng lực, nhận thức để tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS (năng lực hành vi TTDS). Theo đó, cá nhân này phải đáp ứng các điều kiện về độ tuổi và khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của mình mà PL quy định.
Thứ hai, người đại diện tham gia quan hệ tố tụng trên cơ sở nhân danh đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Người đại diện không đương nhiên có tư cách tố tụng để tham gia vào quá trình tố tụng của một vụ việc dân sự cụ thể. Tư cách đó hoặc do pháp luật quy định hoặc do đương sự trao cho họ. Đó là sự thay mặt của người đại diện cho người được đại diện thực hiện các quyền năng tố tụng của đương sự, nhưng phải dưới danh nghĩa của đương sự, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của đương sự. Điều này phân biệt người đại diện với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng đồng thời với đương sự, có vị trí pháp lý tương đối độc lập với đương sự và thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng riêng biệt mà pháp luật quy định, không phải là thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Dù rằng, mục đích của hai chủ thể này là giống nhau.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của người đại diện phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện. Bởi quan hệ đại diện là việc người đại diện thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Nên người đại diện của nguyên đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, người đại diện của bị đơn thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn…Theo đó, người đại diện của từng loại đương sự khác nhau thì thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau. Hơn nữa, quyền và nghĩa vụ của người đại diện còn phụ thuộc vào nội dung quan hệ đại diện giữa người được đại diện và người đại diện trong quan hệ đại diện theo ủy quyền. Trong hợp đồng/văn bản ủy quyền, hai bên hầu như sẽ quy định rõ phạm vi đại diện, tức những quyền và nghĩa vụ mà người đại diện được thực hiện thay cho đương sự trong thời gian quan hệ đại diện có hiệu lực.
2, Phân loại người đại diện của đương sự trong TTDS
Theo quy định tại Điều 85 BLTTDS 2015, người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm: người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền
2.1, Người đại diện theo pháp luật
Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật. Người đại diện theo pháp luật của đương sự gồm có: Cha, mẹ của con chưa thành niên; Người giám hộ của người được giám hộ; Người đứng đầu cơ quan, tổ chức; Chủ hộ gia đình và cá nhân, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật đã hạn chế những trường hợp không được làm người đại diện tại Điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, đó là: người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự; người là đương sự trong cùng một vụ án đối với người được đại diện mà quyền, lợi ích của họ đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện; người đang là người đại diện theo pháp luật của một đương sự khác trong cùng một vụ án mà quyền, lợi ích của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện; Cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Kiểm sát, Công an. Bên cạnh những trường hợp đại diện theo pháp luật được nêu trên, Khoản 3 Điều 136 Bộ luật dân sự năm 2015 cũng quy định một trường hợp nữa đó là người đại diện theo pháp luật của đương sự do Toà án chỉ định. Tuy nhiên Tòa án chỉ tiến hành chỉ định người đại diện cho đương sự khi đương sự là người bị hạn chế năng lực HVDS mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật không được đại diện theo quy định tại Khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự.
2.2, Người đại diện theo uỷ quyền.
Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự. Đối với đại diện theo uỷ quyền, đương sự là người có năng lực hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt cho họ và việc ủy quyền phải được tiến hành dưới hình thức văn bản.
Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự, sau khi ủy quyền cho người đại diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người được ủy quyền. Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng trong các loại việc trừ việc ly hôn.
II, Phân tích quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự trong TTDS
1, Căn cứ xác lập quan hệ đại diện trong TTDS
Căn cứ vào Điều 85 BLTTDS 2015; Điều 135 BLDS 2015 quan hệ đại diện trong TTDS được xác lập như sau:
Thứ nhất, xác lập quan hệ đại diện dựa trên cơ sở các quy định pháp luật (người đại diện theo pháp luật): người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 136 BLDS 2015 quy định về người đại diện pháp luật của cá nhân, đó là những trường hợp pháp luật ấn định cụ thể người đại diện cho đương sự khi tham gia TTDS. Chẳng hạn, cha, mẹ với con chưa thành niên; người được chỉ định theo điều lệ pháp nhân; cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của mình tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích chung của nhà nước, xã hội; cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; tổ chức đại diện tập thể lao động là đại diện theo pháp luật của người lao động trong tranh chấp lao động…
Thứ hai, xác lập quan hệ đại diện trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (người đại diện do tòa án chỉ định): người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo chỉ định của tòa án. Theo Điều 88 BLTTDS 2015, tòa án chỉ định người người đại diện nếu đương sự không có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS như người chưa thành niên, người mất năng lực HVDS, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực HVDS. Tuy nhiên, việc chỉ định chỉ thực hiện khi đương sự chưa có hoặc không xác định được người đại diện hoặc người đại diện thuộc trường hợp ko đc làm đại diện theo quy định tại Điều 87 BLTTDS 2015.
Thứ ba, xác lập quan hệ đại diện trên cơ sở sự thỏa thuận giữa các bên (người đại diện theo ủy quyền): người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự. Do vậy, đương sự có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác hoặc vừa ủy quyền vừa trực tiếp tham gia tố tụng. Người đại diện theo ủy quyền phải là người không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 87 BLTTDS 2015. Đối với đại diện theo ủy quyền, các bên phải đáp ứng các điều kiện do luật định (có năng lực hành vi TTDS đầy đủ). Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS 2015 thì việc ly hôn đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng trừ trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình.
2, Phạm vi tham gia TTDS của người đại diện của đương sự
Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện đương sự là giới hạn những loại việc mà người đại diện của đương sự có quyền thay mặt đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án. Tuy nhiên, phạm vi đại diện tham gia tố tụng dân sự có sự khác nhau giữa đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền và đại diện do Tòa án chỉ định.
2.1, Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật
Trường hợp người đại diện theo pháp luật cho cá nhân chưa có năng lực HVDS hoặc bị mất năng lực HVDS hoặc chủ thể là pháp nhân, tổ chức không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự. Lúc này người đại diện theo pháp luật sẽ có quyền thực hiện mọi quyền, nghĩa vụ của đương sự, thay mặt đương sự, vì quyền lợi và nghĩa vụ của đương sự mà không bị hạn chế trong một phạm vị hay loại việc nào. Cụ thể, khoản 2, Điều 85 BLTTDS năm 2015 quy định: “Người đại diện theo pháp luật theo quy định của Bộ luật Dân sự là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật.”. Có thể thấy, người đại diện theo pháp luật của đương sự đương nhiên được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khi thấy cần thiết. Như vậy, phạm vi đại diện tham gia tố tụng dân sự của người đại diện theo pháp luật thường rộng hơn phạm vi tham gia của đại diện theo ủy quyền.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì chỉ được tham gia tố tụng đối với những loại việc được pháp luật cho phép .
2.2, Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền của đương sự
Theo quy định tại khoản 4 Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự 2015: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.” Có thể thấy, đại diện theo ủy quyền, được xác lập, thực hiện hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người được đại diện và người đại diện, phạm vi đại diện được thể hiện rõ trong nội dung ủy quyền. Về phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền, thì đương sự có thể ủy quyền một phần hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ tố tụng cho người đại diện. Do đó, phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền thường bị hạn chế trong một số công việc, một hoặc một vài giai đoạn của công việc nào đó trong tố tụng dân sự. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được hành động trong phạm vi cho phép nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện.
2.3, Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện do tòa án chỉ định.
Theo quy định tại Điều 88 BLTTDS 2015, trong một số trường hợp khi đương sự không có người đại diện thì Tòa án sẽ chỉ định người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Về phạm vi tham gia tố tụng dân sự của người đại diện do Tòa án chỉ định thì người đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của Tòa án chỉ định họ đại diện cho đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện do Tòa án chỉ định không bị hạn chế trong các loại việc.
Như vậy, phạm vi đại diện tham gia tố tụng dân sự có sự khác nhau giữa đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền và đại diện do Tòa án chỉ định nhưng nhìn chung đều có mục đích để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
3, Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong TTDS
3.1, Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự
Theo khoản 1 Điều 86 BLTTDS 2015:“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện.”. Như vậy, khi tham gia tố tụng, người đại diện theo pháp luật của đương sự nhân danh cho đương sự thực hiện hầu hết quyền và nghĩa vụ ngoại trừ quyền hòa giải vụ án ly hôn tại tòa án (khoản 3 Điều 207 BLTTDS năm 2015). Về cơ bản, pháp luật quy định như vậy là hợp lý bởi quyền hòa giải ly hôn của đương sự là một quyền nhân thân nên phải do họ tự quyết định, người đại diện trong trường hợp này không thể đảm bảo họ bày tỏ đúng hoàn toàn với ý muốn của đương sự; đồng thời việc hòa giải trong vụ án ly hôn tác động trực tiếp đến quan hệ hôn nhân của đương sự nên người đại diện không thể thay đương sự trình bày ý kiến khi hòa giải.
Theo đó, người đại diện theo pháp luật của đương sự có các quyền và nghĩa vụ chung của đương sự theo Điều 70 BLTTDS năm 2015, trong đó có một số quy định cần lưu ý như: “Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án” (khoản 16), theo quy định nếu giấy triệu tập được gửi một cách hợp lệ thì bắt buộc đương sự hay người đại diện của đương sự phải có mặt tại Tòa án theo nội dung của giấy triệu tập; “Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa” (khoản 1), đây là nghĩa vụ đầu tiên và được xem là một trong những nguyên tắc đảm bảo xét xử khách quan công bằng, sự tôn nghiêm trong quá trình xét xử; “Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này” (khoản 8), đây là quyền quan trọng của đương sự, quyền này cho phép một bên biết và chuẩn bị chứng cứ, lập luận để tranh biện về những yêu cầu hay lập luận mà bên kia đưa ra; “Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng.” (khoản 20), đây cũng được xem là một trong những quyền quan trọng nhất của đương sự mà người đại diện theo pháp luật của đương sự được hưởng khi thực hiện chức năng đại diện tại phiên tòa, những tranh luận của người đại diện cũng sẽ được coi là một căn cứ để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết. Ngoài ra, người đại diện theo pháp luật của đương sự còn có các quyền và nghĩa vụ khác như: “Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” (khoản 5); “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình.” (khoản 6). Ngoài các quyền và nghĩa vụ chung được quy định tại Điều 70 – 73 BLTTDS năm 2015.
3.2 Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền của đương sự
Khoản 2 Điều 86 BLTTDS năm 2015 quy định: “2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”. Như vậy quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền sẽ được xác lập dựa trên sự thỏa thuận của người đại diện với đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự. Đương sự có thể ủy quyền một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, đồng nghĩa với việc tùy theo nội dung ủy quyền mà các quyền và nghĩa vụ của người đại diện ở mức độ khác nhau.
Theo đó, người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi đại diện được ủy quyền. Nếu vượt quá phạm vi đại diện thì họ phải gánh chịu hậu quả pháp lý phát sinh được quy định theo Điều 143 BLDS năm 2015.
Đương sự cũng có thể cùng song song có mặt với người đại diện theo ủy quyền trong quá trình giải quyết của Tòa án, khi Tòa án triệu tập hoặc trong trường hợp thấy cần thiết phải bổ sung những lời khai.
4, Chấm dứt quan hệ đại diện và hậu quả chấm dứt trong quan hệ đại diện
Căn cứ vào Điều 89 BLTTDS quy định: “Người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự chấm dứt việc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự”. Quan hệ đại diện cũng như các quan hệ khác trong tố tụng dân sự không tồn tại vĩnh viễn và có thể chấm dứt khi có những sự kiện pháp lý nhất định. Nếu điều kiện, hoàn cảnh của đương sự thay đổi thì quan hệ đại diện cũng chấm dứt.
4.1. Chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật của đương sự trong TTDS và hậu quả pháp lý
Căn cứ khoản 4 Điều 140 BLDS quy định các trường hợp chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật chung, bao gồm cả đương sự trong TTDS, cụ thể: “4, Đại diện theo pháp luật chấm dứt trong trường hợp sau đây: a) Người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực HVDS đã được khôi phục; b) Người được đại diện là cá nhân chết; c) Người được đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại; d) Căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.”. Theo đó, quy định nêu sẽ chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật đối với hai chủ thể là cá nhân và pháp nhân.
Thứ nhất, đối với cá nhân. Trường hợp người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc năng lực HVDS đã được khôi phục thể hiện rõ vai trò của người đại diện (cha mẹ, người giám hộ, người đại diện do Tòa chỉ định…) đối với người được đại diện. Đó là việc người được đại diện đã thành niên – đủ 18 tuổi trở lên và việc có quyết định của Tòa án tuyên bố hủy bỏ quyết định mất năng lực hành vi hay hạn chế năng lực HVDS của một cá nhân. Theo đó, khi các chủ thể này đảm bảo được việc đại diện của chính mình trong việc thực hiện các hành vi pháp lý, giao dịch pháp lý… thì đương nhiên sẽ và nên chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật của những người này. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 140 BLTTDS 2015 quy định trường hợp: “người được đại diện là cá nhân chết”. Khi mà một người chết đi sẽ kéo theo việc chấm dứt các quan hệ pháp luật đã phát sinh của người này, trong đó bao gồm cả việc chấm dứt quan hệ đại diện. Theo đó, khi người được đại diện chết đi thì sẽ không cần người đại diện thay mặt mình thực hiện các hành vi, giao dịch pháp lý… Và theo đó, quan hệ đại diện theo pháp luật trong trường hợp này sẽ đương nhiên chấm dứt.
Thứ hai, đối với pháp nhân. Luật định trường hợp “pháp nhân chấm dứt tồn tại” sẽ là căn cứ để chấm dứt quan hệ đại diện. Dẫn chiếu tới khoản 2 Điều 96 BLTTDS quy định thời điểm pháp nhân chấm dứt tồn tại “kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Theo đó, cũng tương tự như trường hợp cá nhân được đại diện chết đi, pháp nhân chấm dứt tồn tại (khi pháp nhân hợp nhất, sáp nhập, chia tách, giải thể và bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật) cũng sẽ không cần tới người đại diện kéo theo việc chấm dứt quan hệ đại diện đang tồn tại.
Tham khảo thêm Thủ tục cấp sổ đỏ cho đất thuê trả tiền hàng năm
Thứ ba, trường hợp các nhà làm luật quy định dự trù để điều chỉnh cho những trường hợp trên cụ thể có thể sẽ phát sinh trong tương lai mà Bộ luật này chưa được quy định, “căn cứ khác theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan”.
4.2. Chấm dứt quan hệ đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS và hậu quả pháp lý
Căn cứ khoản 3 Điều 140 Bộ luật TTDS quy định các trường hợp chấm dứt quan hệ đại diện theo ủy quyền, cụ thể:
Thứ nhất, theo thỏa thuận, do tính chất của quan hệ đại diện này dựa trên sự thỏa thuận của các bên. Vậy nên, khi các quan có thỏa thuận chấm dứt quan hệ đại diện thì đương nhiên đây sẽ là căn cứ hữu hiệu nhất. Đây chính là trường hợp luật định tuân theo ý chỉ của cả hai bên chủ thể trong quan hệ.
Thứ hai, thời hạn ủy quyền đã hết, theo nguyên tắc thì bên được ủy quyền phải thực hiện xong công việc đã được ủy quyền trong thời hạn ủy quyền. Tuy nhiên vì những lý do khách quan hay chủ quan nào đó mà dẫn đến công việc được ủy quyền không được thực hiện đúng thời hạn (trừ trường hợp có thỏa thuận khác) cũng sẽ là căn cứ để chấm dứt quan hệ đại diện.
Thứ ba, công việc được ủy quyền đã hoàn thành, bản chất của đại diện theo ủy quyền là bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc được bên kia chỉ định. Vậy nên, nếu người đại diện đã thay mặt người ủy quyền thực hiện một công việc cụ thể trong tố tụng và đã hoàn thành xong công việc đó thì đương nhiên làm chấm dứt quan hệ đại diện.
Thứ tư, người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền. Đây là trường hợp pháp luật cho phép chấm dứt tư cách của người đại theo ủy quyền căn cứ theo ý chí của quy nhất một bên trong quan hệ, ngược lại với trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 140 Bộ luật TTDS
Thứ năm, người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện, người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại. Trường hợp này cũng tương tự như việc chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật quy định tại điểm b và điểm c khoản 4 Điều 140 Bộ luật TTDS. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở đây là trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, một trong hai bên chết hoặc chấm dứt tư cách pháp nhân đều sẽ là căn cứ chấm dứt quan hệ đại diện.
Thứ sáu, người đại diện không còn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của Bộ luật này. Điều luật quy định: “Trường hợp pháp luật quy định thì người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực HVDS phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện”. Quan hệ đại diện trong trường hợp này sẽ chấm dứt khi người được ủy quyền chết, mất năng lực HVDS, bị hạn chế năng lực HVDS, bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết.
Thứ bảy, căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được. Đây cũng là một trường hợp các nhà làm luật dự trù cho các tình huống có thể xảy ra khi đối tượng của quan hệ đại diện theo ủy quyền là việc ủy quyền không thể thực hiện được (vụ án bị đình chỉ, người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền…). Khi này, đối tượng mà giao dịch đại diện theo ủy quyền không còn, kéo theo quan hệ đại diện theo ủy quyền chấm dứt.
4.3. Hậu quả pháp lý chấm dứt quan hệ đại diện theo pháp luật và chấm dứt quan hệ đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
Quy chiếu tới hai hình thức đại diện, việc chấm dứt quan hệ đại diện trong mỗi trường hợp cũng sẽ dân tới hậu quả pháp lý khác nhau. Theo đó, căn cứ Điều 40 BLTTDS quy định hậu quả của việc chấm dứt đại diện trong tố tụng dân sự, cụ thể:
Thứ nhất, trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực HVDS thì người đó tự mình tham gia tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự.
Thứ hai, trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng.
III, Đánh giá thực trạng quy định pháp luật về người đại diện của đương sự trong TTDS
Thứ nhất, Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện của đương sự thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm tố tụng của họ một cách hiệu quả. Việc thực hiện các quy định đối với người đại diện cho đương sự được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh. Đồng thời, Toà án cũng đã phối hợp, giúp đỡ để nâng cao chất lượng trong việc thực hiện, kiểm tra, giám sát các quy định đối với người đại diện của đương sự. Vì vậy, người đại diện có cơ hội thực hiện khá tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ từ quyền khởi kiện, quyền phản đối, rút đơn khởi kiện…, tham gia phiên tòa, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của đương sự, quy định cả trường hợp pháp nhân có thể làm đại diện theo pháp luật của đương sự được quy định trong BLTTDS 2015 cụ thể hơn BLTTDS 2004 (Điều 85 và Điều 86 BLTTDS 2015), các trường hợp không được làm đại diện theo pháp luật của đương sự, căn cứ chấm dứt và hậu quả pháp lý từ điều 87- điều 90. Hệ thống pháp luật TTDS đã đặt ra quy định chi tiết, rõ ràng và minh bạch về các biện pháp kiểm soát để xử lý khi có hành vi vi phạm xảy ra. Tùy thuộc vào địa vị tố tụng và tính chất của các chủ thể, mức độ vi phạm, pháp luật TTDS quy định các biện pháp kiểm soát tương ứng.
Thứ ba, số lượng người đại diện cho đương sự tham gia các hoạt động tố tụng dân sự cũng tăng và có tính chất chuyên nghiệp hơn. Hình thức đại diện theo uỷ quyền với sự tham gia của Luật sư – những người bào chữa chuyên nghiệp, do đó chất lượng của bản án, quyết định của Toà án cũng được nâng cao.
Hiện nay, BLTTDS 2015 đã giải quyết một số vấn đề tồn tại từ bộ luật tố tụng dân sự 2004 như quy định về đại diện cho đương sự của pháp nhân, quy định về các trường hợp mà tòa chỉ định người đại diện… Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện các quy định của pháp luật về người đại diện cho đương sự vẫn còn nhiều những vướng mắc, một số vấn đề cụ thể như sau:
Thứ nhất, lúng túng trong việc xác định tư cách đại diện của một số đối tượng đặc biệt. Ví dụ như là chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp, khi phát sinh những tranh chấp trong phạm vi quyền hạn do doanh nghiệp quy định cho chi nhánh/văn phòng đại diện thì sẽ do doanh nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp mà không phải là văn phòng đại diện/chi nhánh. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thì vẫn có một số tòa mắc sai lầm khi xác định chi nhánh/văn phòng đại diện là đương sự trong các vụ việc phát sinh từ hành vi thực hiện chức năng đại diện của chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp.
Thứ hai, Khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015 dẫn chiếu đến khoản 3 Điều 138 BLDS 2015: Người đại diện theo ủy quyền từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi trong quan hệ dân sự có thể trở thành người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự. Quy định trên là không hợp lý, khác với quan hệ pháp luật dân sự, quá trình tố tụng là một quá trình phức tạp, do đó, một người khi tham gia tố tụng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác cần phải có hiểu biết và kỹ năng pháp lý đầy đủ thì mới có thể bảo đảm thực hiện tốt nhất quyền, nghĩa vụ tố tụng. Cho nên, người đại diện của đương sự cần phải có năng lực HVDS đầy đủ, và phải là người đủ 18 tuổi.
Thứ ba, BLTTDS 2015 chưa có quy định về việc ủy quyền lại, nếu dẫn chiếu sang quy định của BLDS thì việc ủy quyền lại chỉ được công nhận khi đồng ý của bên ủy quyền hoặc do sự kiện bất khả kháng, nếu không áp dụng ủy quyền lại thì mục đích xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của người ủy quyền không thể thực hiện được.
Thứ tư, BLTTDS 2015 không quy định mọi thời điểm tố tụng, tính thời hạn uỷ quyền. Trường hợp các bên xác định thời hạn uỷ quyền từ khi bắt đầu vụ kiện đến khi chấm dứt vụ kiện. Thời điểm điểm bắt đầu vụ kiện được xác định khi nguyên đơn có đơn khởi kiện hay khi cơ quan có thẩm quyền thụ lý đơn hay khi Toà án thụ lý giải quyết vụ kiện. Trường hợp các bên đương sự không có thỏa thuận về thời hạn ủy quyền và pháp luật cũng không có quy định thì pháp luật xác định thời hạn ủy quyền của các bên có hiệu lực là một năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền. Vậy “ngày xác lập việc ủy quyền” là ngày nào, cụ thể là ngày hai bên ký vào văn bản ủy quyền hay tính từ ngày được cơ quan chức năng xác nhận vào hợp đồng ủy quyền đó.
Thứ năm, BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa quy định cụ thể về thẩm quyền chỉ định người đại diện và các tiêu chí lựa chọn người đại diện ngoài những điều kiện để được trở thành người đại diện. Vì vậy, việc thực hiện quy định này trong thực tế chưa được thống nhất và ít Tòa án dụng hình thức chỉ định người đại diện.
Thứ sáu, khi người đại diện thực hiện hành vi đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện, hậu quả xảy ra là giao dịch này sẽ bị hủy bỏ do không có giá trị về mặt pháp lý. Tuy nhiên, việc người đại diện đó có phải chịu trách nhiệm hay không, trách nhiệm về vật chất hay tinh thần của người đại diện như thế nào đối với thiệt hại phát sinh do giao dịch nói trên pháp luật cũng chưa được đặt ra để giải quyết. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp phải hủy án do người người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện nhưng rất ít vụ án được thụ lý yêu cầu bồi thường thiệt hại. BLTTDS chưa quy định cụ thể về quy trình, thủ tục tiến hành các biện pháp như yêu cầu bồi thường, tuyên bố giao dịch vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên, để bảo vệ quyền và lợi ích của bên thứ ba khi xác lập và thực hiện giao dịch với người đại diện không có quyền đại diện hoặc vượt quá phạm vi đại diện.
Thứ bảy, BLTTDS 2015 không có quy định về trách nhiệm thông báo việc chấm dứt đại diện cho Tòa án, cho người ủy quyền và bên thứ ba. Thực tế có trường hợp người đại diện không thông báo việc chấm dứt đại diện cho Tòa án, dẫn đến Tòa án xác định sai tư cách đại diện trong quá trình xét xử và phán quyết sơ thẩm.
Thứ tám, liên quan đến trường hợp cha, mẹ người thân thích khác yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn chưa quy định cụ thể là đại diện theo ủy quyền hay đại diện theo pháp luật. Điều này gây khó khăn cho chính người được đại diện vì nếu là đại diện theo ủy quyền họ phải lập văn bản ủy quyền cho người đại diện, còn nếu là được quy định là đại diện theo pháp luật thì họ không cần thực hiện thủ tục đó.
3, Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện của đương sự trong TTDS
Bên cạnh những ưu điểm các quy định của BLTTDS năm 2015 về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự hiện còn một số những bất cập nhất định. Do không có quy định cụ thể, nên thực tiễn TTDS có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau giữa các Tòa án về người đại diện của đương sự. Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện và quy định chi tiết hơn về người đại diện của đương sự trong BLTTDS năm 2015. Từ những vấn đề bất cập nêu ở trên nhóm chúng em đề xuất một số giải pháp sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự như sau:
Thứ nhất, cần có những hướng dẫn cụ thể và nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực của thẩm phán trong hành nghề, cụ thể đối với vấn đề xác định đương sự và người đại diện của đương sự, thẩm phán cần phải phân biệt rõ ràng giữa người đại diện và người được đại diện trong tố tụng dân sự.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện trở thành người đại diện. Các quy định về điều kiện trở thành người đại diện cần được sửa đổi, bổ sung bao gồm:
– Điều kiện về độ tuổi: quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS không phù hợp với thực tiễn và cần được nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp. Quá trình tố tụng là một quá trình phức tạp, vì vậy, một người muốn tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác thì phải có kiến thức và sự hiểu biết nhất định, do đó cần phải bổ sung thêm quy định như sau: “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự phải là người từ đủ 18 tuổi, không bị Tòa án tuyên bố mất, hạn chế năng lực HVDS”.
– Về người đại diện có được đồng thời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hay không: BLTTDS năm 2015 không giới hạn một người có thể tham gia tố tụng với hai tư cách vừa là người đại diện và vừa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, điều này sẽ gây khó khăn trong việc giải quyết của Tòa án. Vì vậy, cần thiết phải bổ sung thêm quy định trường hợp không được làm người đại diện nếu họ đang là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Cụ thể, sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 87 BLTTDS năm 2015. Đồng thời, bổ sung quy định tại Điều 75 BLTTDS năm 2015 về trường hợp một người đang là người đại diện của đương sự thì không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó trong vụ án.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về ủy quyền lại. Để đảm bảo cho việc áp dụng quy định của pháp luật về đại diện theo ủy quyền được thống nhất và tránh trường hợp gây khó khăn trong việc công chứng hợp đồng ủy quyền lại để tham gia tố tụng cần phải có những sửa đổi, bổ sung quy định về vấn đề này trong BLTTDS. Dựa trên quy định của BLDS, có thể sửa đổi, bổ sung BLTTDS theo hướng sau: “Nếu trong hợp đồng ủy quyền lần đầu không quy định người nhận ủy quyền được ủy quyền lại cho bên thứ ba” thì người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho bên thứ ba. Ngoài ra khi ủy quyền lại phải đáp ứng các điều kiện: Phạm vi ủy quyền lại không vượt quá phạm vi ủy quyền ban đầu; Hình thức hợp đồng ủy quyền lại phải phù hợp với hình thức của hợp đồng ủy quyền ban đầu.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về hình thức của đại diện theo ủy quyền. BLTTDS năm 2015 không quy định về hình thức của giao dịch đại diện theo ủy quyền giữa đương sự và người đại diện, mà quy định dẫn chiếu sang BLDS 2015. BLDS năm 2015 cũng không quy định rõ việc ủy quyền phải lập thành văn bản hay có thể bằng lời nói hoặc thỏa thuận ngầm định. Trong thực tiễn tố tụng dân sự, Tòa án chỉ chấp nhận việc ủy quyền bằng văn bản. Điều này thể hiện sự quá coi trọng hình thức văn bản và thể hiện tính không linh hoạt. Việc có Tòa án yêu cầu công chứng, chứng thực, có Tòa án lại không dẫn đến sự không thống nhất trong việc giải thích, áp dụng pháp luật, có thể khiến người dân mất đi lòng tin vào năng lực của đội ngũ cán bộ Tòa án. Chính vì thế, sự thống nhất trong vấn đề hình thức ủy quyền là rất cần thiết. Cần có quy định cụ thể về hình thức của quan hệ ủy quyền đại diện trong tố tụng dân sự.
Bởi vậy, nhóm kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 theo hướng quy định việc đại diện theo ủy quyền của đương sự không nhất thiết phải bằng hình thức văn bản, mà có thể được biểu hiện rõ ràng (bằng lời nói hoặc văn bản) hoặc ngầm định. Vì bản chất việc ủy quyền là giao dịch dân sự, mà giao dịch dân sự thì có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Từ việc bổ sung quy định hình thức của việc đại diện theo ủy quyền của đương sự, cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 86 BLTTDS năm 2015, cụ thể bỏ từ “văn bản” trong cụm từ “theo nội dung văn bản ủy quyền” như sau:“ 2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung ủy quyền”.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung quy định về phạm vi đại diện theo ủy quyền. Về phạm vi đại diện theo ủy quyền, để tránh sự không nhất quán trong việc hiểu và áp dụng về quy định ủy quyền toàn quyền, BLTTDS sửa đổi cần có quy định cụ thể hơn về phạm vi ủy quyền. Đồng thời, để tránh trường hợp đương sự lạm dụng, ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng gây khó khăn cho quá trình tố tụng, cần sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 theo hướng một đương sự chỉ được quyền cho một người đại diện (cá nhân hoặc pháp nhân). Đương sự chỉ được ủy quyền cho nhiều người đại diện, nếu trong vụ án có nhiều vấn đề được ủy quyền và các vấn đề này độc lập với nhau. Nhóm em kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 86 BLTTDS năm 2015 như sau: “2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự theo nội dung ủy quyền.”
Thứ sáu, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về người đại diện của đương sự. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự, vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm ban hành các văn bản hướng dẫn việc áp dụng, giải thích các quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự nhằm tạo ra một sự thống nhất giữa các Tòa án trong hệ thống Tòa án. Cụ thể là các vấn đề sau đây:
Hướng dẫn quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015 về việc ủy quyền đối với việc giải quyết quan hệ nuôi con và chia tài sản chung trong vụ án hôn nhân gia đình: Đương sự không được ủy quyền cho người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng để giải quyết quan hệ nhân thân là ly hôn, nhưng được ủy quyền để thay mặt họ giải quyết quan hệ về tài sản, con và nhận các giấy tờ pháp lý tại Tòa án. Điều này không trái với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và Gia đình, không trái với quy định tại khoản 4 Điều 85 BLTTDS năm 2015, giảm bớt chi phí cấp, thông báo, tống đạt cho Tòa án và đương sự nhanh chóng nhận được các thông tin, bản án, quyết định của Tòa án.
Hướng dẫn quy định tại khoản 3 Điều 87 BLTTDS năm 2015 về sĩ quan, hạ sĩ quan trong Ngành Công an được làm người đại diện trong tố tụng dân sự. Vì theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức, thi sĩ quan, hạ sĩ quan công an nhân dân lại không phải là công chức. Vì vậy, sĩ quan, hạ sĩ quan công an nhân dân được làm người đại diện trong tố tụng dân sự.
Hướng dẫn thủ tục chỉ định người đại diện theo quy định tại Điều 88 BLTTDS năm 2015, cụ thể là hướng dẫn Tòa án nào có thẩm quyền chỉ định người đại diện và các tiêu chí lựa chọn người đại diện ngoài những điều kiện để được trở thành người đại diện nói chung.
Hướng dẫn về thời điểm bắt đầu tính thời hạn ủy quyền: Trường hợp các bên thỏa thuận thời hạn ủy quyền từ khi bắt đầu vụ kiện đến khi kết thúc vụ kiện.
Hướng dẫn về ủy quyền làm đơn khởi kiện: cần có văn bản hướng dẫn việc cho phép người đại diện đứng đơn khởi kiện và ký đơn khởi kiện là một giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự. Hơn thế nữa, quan hệ đại diện chính là quan hệ mà người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện theo chính nguyện vọng của người đó. Vì vậy, khi đương sự ủy quyền cho người đại diện ký đơn khởi kiện thì cũng có nghĩa là họ đã thể hiện ý chí của mình và điều này là hoàn toàn đúng.
Hướng dẫn về ủy quyền kháng cáo: Việc kháng cáo là một trong các công việc có liên quan trong quá trình tham gia tố tụng giải quyết vụ án với mục đích có được quyết định, bản án cuối cùng có hiệu lực của Tòa án. Vì vậy trường hợp trong văn bản ủy quyền ghi rõ ủy quyền toàn bộ, thì người đại diện có quyền thực hiện quyền kháng cáo của đương sự. Trường hợp văn bản ủy quyền không ghi ủy quyền toàn bộ hoặc ghi rõ từng nội dung ủy quyền cụ thể nhưng không có nội dung ủy quyền kháng cáo, thì lúc đó mới cần làm lại văn bản ủy quyền có nội dung ủy quyền kháng cáo.
Hướng dẫn xử lý trường hợp vượt quá phạm vi đại diện hoặc đại diện không có ủy quyền: Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp phải hủy án do người người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền hoặc không có quyền đại diện nhưng rất ít vụ án được thụ lý yêu cầu bồi thường thiệt hại. Vì vậy, cần có văn bản hướng dẫn chi tiết về vấn đề này.
Như vậy, Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành về “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo công bằng, minh bạch và hiệu quả của hệ thống tư pháp. Quy định về người đại diện của đương sự đã và đang đóng góp tích cực vào việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích của các bên tham gia vào tố tụng. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận rằng có những thách thức và hạn chế trong thực thi của quy định này. Đôi khi, quy định về người đại diện có thể gây những tranh cãi phức tạp về sự độc lập và chính xác của đại diện đối với người được đại diện. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề này, cần phải có sự chung tay từ các cá nhân, tổ chức cũng như các cơ quan có thẩm quyền, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể cũng như bảo vệ tính khách quan, khoa học của pháp luật.