CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Trong vụ án hình sự hay dân sự thì chứng cứ là một chế định trung tâm. Chứng cứ không chỉ đóng vai trò xác định sự thật khách quan của vụ án mà còn phản ánh bản thân quá trình xác định sự thật khách quan đó. Chứng cứ chính là phương tiện để giúp giải quyết các vụ án, vụ việc một cách chính xác nhất, giúp đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tối ưu. Do vậy, việc nắm rõ được các vấn đề về chứng cứ trong tố tụng dân sự là vô cùng quan trọng.
CƠ SỞ PHÁP LÝ
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Định nghĩa về chứng cứ trong vụ việc dân sự được quy định tại Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể:
“ Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.”
Theo quy định trên, chứng cứ phải đáp ứng các điều kiện sau:
– Phải là những gì có thật;
– Phải được các đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục.
– Được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án, xác định yêu cầu hay sự phản đối của các đương sự.
Như vậy, không phải tất cả các thông tin, tài liệu thu thập được đều là chứng cứ mà chỉ có các thông tin, tài liệu mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, có liên quan đến vụ án, là căn cứ để giải quyết vụ án và hợp pháp mới được xem là chứng cứ.
Lưu ý: bản ghi âm bình thường sẽ không được xem là chứng cứ, bản ghi âm chỉ được xem là chứng cứ khi nó được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Tài liệu được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
– Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;
– Vật chứng;
– Lời khai của đương sự;
– Lời khai của người làm chứng;
– Kết luận giám định;
– Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
– Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
– Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
– Văn bản công chứng, chứng thực;
– Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Lưu ý: Hiện nay có rất nhiều người đang có sự nhầm lẫn giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ. Ví dụ: Hợp đồng là nguồn chứng cứ chứ không phải là chứng cứ.
CHỨNG CỨ ĐIỆN TỬ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ “chứng cứ điện tử” mà có những quy định về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Pháp luật dân sự không quy định về định nghĩa khái niệm dữ liệu điện tử là gì.
Có thể tham khảo khái niệm dữ liệu điện tử theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự như sau: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử.”
Theo quy định trên, dữ liệu điện tử có thể được hiểu là những thông tin, dữ liệu khác nhau, có thể là văn bản, hình ảnh hoặc cũng có thể là âm thanh,… được thu thập từ các thiết bị điện tử như máy tính và các thiết bị lưu trữ thông tin, dữ liệu hay các thông tin, dữ liệu từ mạng máy tính, điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, mạng internet,…
Mặc dù không quy định khái niệm về dữ liệu điện tử nhưng Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 lại ghi nhận về chứng cứ điện tử. Cụ thể quy định tại Khoản 3 Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 như sau:
“3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.”
Có thể thấy rằng, thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là các văn bản điện tử như thư điện tử (mail), điện tín, điện báo, fax,.. hay có thể là hình ảnh, video,…
Dữ liệu điện tử chính là nguồn quan trọng để thu thập chứng cứ điện tử. Tuy vậy, không phải dữ liệu điện tử nào cũng có thể trở thành chứng cứ điện tử. Dữ liệu điện tử muốn trở thành chứng cứ phải bảo đảm được các thuộc tính của chứng cứ là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Do đó, đối với những dữ liệu điện tử được khởi tạo mang tính chủ quan của một chủ thể, không phản ánh đúng sự thật khách quan, được tạo ra để với mục đích không chính đáng nhằm che giấu, qua mặt cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì không được xem là chứng cứ.
Lưu ý:
– Dữ liệu điện tử có một đặc điểm là rất dễ bị tác động, thay đổi. Do đó, dữ liệu điện tử muốn được xem là chứng cứ phải đảm bảo được tính nguyên vẹn của nội dung cần phản ánh. Trường hợp đối với những dữ liệu điện tử bị cắt ghép, lưu trữ, truyền gửi nhưng không bảo đảm được tính nguyên vẹn như vốn có, các thông tin chứa đựng trong nguồn chứng cứ không còn phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng thì không được xem là chứng cứ.
– Chứng cứ điện tử cũng giống như chứng cứ thông thường khác phải được các bên tham gia tố tụng cung cấp cho Tòa án hoặc do Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền thu thập nhằm chứng minh cho các yêu cầu của các chủ thể hay các đương sự khi giải quyết các yêu cầu, vụ việc theo trình tự tố tụng.
Bên cạnh đó, dữ liệu điện tử phải được thu thập, khai thác, ghi nhận,… theo đúng quy định của pháp luật, đối với những dữ liệu điện tử không được phát hiện, ghi nhận, thu thập, bảo quản, khai thác đúng theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định cũng không thể trở thành chứng cứ điện tử và không có giá trị sử dụng trong quá trình tố tụng.
Hiện nay, chứng cứ điện tử đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Bởi lẽ, phần lớn hiện nay các bên tham gia thường lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng điện tử.