Bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam Chương 1 Phần 2

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM

1.2. NỘI DUNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TẠM GIỮ TẠM GIAM

Kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 và Luật Tổ chức VKSND năm 2014 ra đời với rất nhiều điểm mới, vai trò của VKSND được nâng lên rõ rệt, đặc biệt trong việc bảo đảm QCN được thực thi có hiệu quả. Kể từ khi BLTTHS 2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016, rất nhiều các quy định có tính nguyên tắc được đưa vào Chương II của Bộ luật này, đây là sự cụ thể hóa các quy định về QCN của Hiến pháp năm 2013 cũng như nội luật hóa một số quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Theo đó, thông qua công tác kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam, VKS cần bảo đảm được những quyền cơ bản sau:

1.2.1. Quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện

Từ tuyên bố nền tảng trong Tuyên ngôn toàn thế giới về QCN năm 1948, tại Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) đã cụ thể hoá quyền không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định”. Năm 1982, Việt Nam gia nhập Công ước ICCPR và đến nay đã nội luật hoá quy định của pháp luật quốc tế về quyền không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện trong hệ thống pháp luật từ những quy định của Hiến pháp năm 2013 đến quy định của BLTTHS năm 2015, BLHS năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Thi hành án hình sự năm 2019, Luật Trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017,…. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 là văn bản pháp luật đầu tiên, đặt nền tảng cho cơ sở pháp lý bảo vệ quyền không bị bắt, giam giữ tuỳ tiện với quy định tại khoản 2 Điều 20: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định”. Trên cơ sở đó, Điều 10 BLTTHS năm 2015 quy định: “… Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này”. Tại khoản 2 Điều 109 BLTTHS quy định cụ thể các trường hợp bắt người gồm: “Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang; Bắt người đang bị truy nã; Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người bị yêu cầu dẫn độ”.

1.2.2. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm

Tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm con người là những vấn đề hết sức quan trọng, được pháp luật quy định rõ ràng và có biện pháp xử lý nghiêm minh trước các hành vi xâm hại. Con người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm và được bảo đảm về sức khỏe, bảo vệ khỏi bất cứ một hình thức nào có thể xâm hại đến tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn luôn tồn tại những hành vi vi phạm quy định của pháp luật, xâm hại đến các quyền con người, trong đó phổ biến và nghiêm trọng nhất là hành vi tra tấn. Năm 1948, các quốc gia thành viên Liên Hợp quốc nhất trí thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người ghi nhận các quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục…  Đến năm 1966, Liên Hợp quốc thông qua 02 Công ước quốc tế quan trọng về quyền con người là Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Công ước ICESCR), Công ước về các quyền dân sự và chính trị (Công ước ICCPR), quyền không bị tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục được nhắc lại tại Điều 7 Công ước ICCPR. Ngày 10/12/1984, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã thông qua Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (gọi tắt là Công ước chống tra tấn). Ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký tham gia Công ước Chống tra tấn, đến ngày 28/11/2014, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 83/2014/QH13 phê chuẩn Công ước Chống tra tấn. Ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 364/QĐ-TTg về việc phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn hoặc các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Việc tham gia vào Công ước Chống tra tấn đã giúp góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống tra tấn và các hành vi trái pháp luật khác được quy định trong Công ước, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong phòng, chống tra tấn; vấn đề QCN ngày càng được đề cao trong xã hội hiện nay, quyền lợi của con người ngày càng được đảm bảo hơn.

Hiện nay các quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm ở nước ta được ghi nhận thông qua Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác nhau. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” [14] và “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [14].  bltths năm 2015 quy định: “Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người” [15]; Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; …… đều bị xử lý theo pháp luật” [15]. Điều 4 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 cũng ghi nhận nguyên tắc: “Bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam”; Điều 8 Luật này quy định các hành vi bị nghiêm cấm gồm: “Tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam”. Như vậy có thể khẳng định, tất cả mọi cá nhân, trong đó có người bị tạm giữ, tạm giam đều được bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, không có bất cứ ai được quyền xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác dưới mọi hình thức.

1.2.3. Quyền được suy đoán vô tội

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đặt ra quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[14]. Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng và hoàn toàn mới: “Nguyên tắc suy đoán vô tội, được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội” [15].

Người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho tới khi tội và lỗi của người đó được chứng minh, lỗi không được chứng minh đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh, mọi hoạt động tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử) phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục công khai, minh bạch do BLTTHS năm 2015 quy định. Tội và lỗi của người bị buộc tội chỉ có thể được xác định bởi một bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, việc kết tội một người phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, không được dùng những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra làm chứng cứ nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được những tình tiết đó. Ngoài ra, trong quá trình tố tụng nếu không xác định được trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội một cách rõ ràng theo quy định của pháp luật, không thể làm rõ các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của họ thì các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người đó, kết luận người đó không có tội để trả lại sự tự do cho họ.

1.2.4. Quyền bào chữa của người bị buộc tội

Quyền bào chữa của người bị buộc tội đã được tôn trọng và ghi nhận từ rất sớm trong Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư”. Các bản hiến pháp sau này cũng đều đề cập đến vấn đề này, và cho đến bản Hiến pháp hiện hành – Hiến pháp năm 2013 đã quy định về quyền bào chữa của người bị buộc tội với nhiều điểm mới, tiến bộ, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [14]. Trên cơ sở đó, BLTTHS năm 2015 cũng đã ghi nhận: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thông báo, giải thích cho người bị buộc tội, bị hại, các đương sự thực hiện đầy đủ các quyền bào chữa” [14]. Trong một số trường hợp nhất định, nếu người bị buộc tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì các cơ quan nói trên phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ, đó là: “Bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi” [15].

Vai trò của người bào chữa đối trọng với chức năng buộc tội của các cơ quan tiến hành tố tụng, là cơ sở để thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm cho hoạt động tố tụng và quá trình giải quyết vụ án được tiến hành một cách dân chủ, khách quan, công bằng, phù hợp với các quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.

1.2.5. Một số quyền khác của người bị tạm giữ, tạm giam

Ngoài những quyền cơ bản nêu trên, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 cũng quy định cụ thể về chế độ chung của người bị tạm giữ, tạm giam, bao gồm:

– Về chế độ ăn, ở và sinh hoạt: 

“Trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau, thịt, cá, đường, muối, nước chấm, bột ngọt, chất đốt, điện, nước sinh hoạt; được bảo đảm an toàn thực phẩm trong ăn, uống. Chỗ nằm tối thiểu của mỗi người bị tạm giữ, người bị tạm giam là 2m2, được bố trí sàn nằm và có chiếu. Người bị tạm giữ được nhận quà của thân nhân gửi trong thời gian bị tạm giữ không quá một lần; nếu gia hạn tạm giữ thì mỗi lần gia hạn tạm giữ được nhận quà một lần. Người bị tạm giam được nhận quà của thân nhân gửi đến không quá ba lần trong một tháng. Trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, tạm giam được sử dụng quần áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân; nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn; được gửi hoặc nhận thư, sách, báo và tài liệu khi được cơ quan đang thụ lý vụ án cho phép, thư, sách, báo và tài liệu phải để mở và chịu sự kiểm tra, kiểm duyệt của cơ sở giam giữ” [16].

– Về chế độ chăm sóc y tế: Người bị tạm giữ, tạm giam có quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, được bảo đảm chế độ chăm sóc y tế. Trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam, Nhà nước có trách nhiệm chăm sóc y tế cho người bị tạm giữ, tạm giam khi họ bị ốm đau; được hưởng chế độ khám bệnh, chữa bệnh, phòng, chống dịch bệnh. “Đối với người bị tạm giữ, tạm giam có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì cơ sở giam giữ yêu cầu cơ quan đang thụ lý vụ án trưng cầu giám định pháp y tâm thần” [16].

– Về chế độ sinh hoạt tinh thần: “Cơ sở giam giữ được trang bị hệ thống truyền thanh. Trung bình hai mươi người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc cơ sở giam giữ có dưới hai mươi người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì được cấp một tờ báo địa phương hoặc báo trung ương. Thủ trưởng cơ sở giam giữ tổ chức cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam nghe đài phát thanh, đọc báo. Nếu có điều kiện thì tổ chức cho họ xem chương trình truyền hình địa phương và trung ương” [16].

Bên cạnh đó, Luật cũng có những quy định riêng về chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi và người bị kết án tử hình đang bị tạm giam với những quyền lợi phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh khác nhau của từng đối tượng

Ngoài ra, Luật còn quy định người bị tạm giữ, tạm giam và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan có quyền “khiếu nại đối với quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Người bị tạm giữ, tạm giam và mọi người có quyền “tố cáo với cơ quan, người có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người nào có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.

1.3. PHƯƠNG THỨC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM

Với chức năng và nhiệm vụ bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam, VKS bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, đúng pháp luật, không xảy ra trường hợp nào oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo đảm QCN của những người bị tạm giữ, tạm giam không bị xâm phạm một cách trái pháp luật thông qua hai phương thức: Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam.

1.3.1. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam

Điều 165 BLTTHS năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn điều tra, theo đó, sau khi tiến hành việc kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, tạm giam, VKS có quyền: “Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ, việc tạm giam; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra”. Trường hợp thấy thiếu căn cứ để tạm giữ, tạm giam thì VKS yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, bổ sung chứng cứ để VKS xem xét việc có phê chuẩn hay không. Trong giai đoạn truy tố, VKS có thể trực tiếp ra quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC. Trong giai đoạn xét xử, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC của Tòa án theo quy định tại Điều 278 BLTTHS năm 2015. 

Như vậy có thể thấy, xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án, việc áp dụng các BPNC, đặc biệt là tạm giữ và tạm giam, luôn có sự hiện diện của VKS – cơ quan duy nhất có thẩm quyền phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ BPNC tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của biện pháp tạm giữ và tạm giam, góp phần không nhỏ trong việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được tôn trọng và bảo vệ, mọi hoạt động xâm phạm đến QCN của họ đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời.

1.3.2. Bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam

Theo quy định tại Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Quy chế 501/2017 về công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự (Quy chế 501), VKS bảo vệ QCN thông qua hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam bằng những biện pháp sau:

– Thứ nhất, VKS kiểm sát việc tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm giam; kiểm sát việc lập hồ sơ và thực hiện chế độ quản lý, lưu trữ hồ sơ tạm giữ, tạm giam của các cơ sở giam giữ nhằm bảo đảm cơ sở giam giữ thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định tại Điều 16, 17 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và các quy định khác có liên quan. Tiến hành gặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc thực hiện các quy định của pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, bảo đảm cho việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện khách quan.

Thứ hai, KSV trực tiếp kiểm sát tại các cơ sở giam giữ; nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì VKS có thể tiến hành kiểm sát vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, đồng thời yêu cầu cơ sở giam giữ chấm dứt việc vi phạm pháp luật. Tiến hành kiểm sát việc thực hiện các chế độ ăn, ở, mặc, sinh hoạt; gửi và nhận thư, sách báo, tài liệu; chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam của cơ sở giam giữ nhằm bảo đảm người bị tạm giữ, tạm giam được hưởng đầy đủ các chế độ, quyền lợi hợp pháp của họ.

Thứ ba, VKS kiểm sát việc thực hiện chế độ quản lý giam giữ. Khi phát hiện vi phạm, tồn tại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thì căn cứ Điều 42, Điều 43 Quy chế 501, VKS thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam khắc phục ngay và có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức phòng ngừa theo quy định của pháp luật.

– Thứ tư, yêu cầu cơ sở giam giữ trả tự do ngay cho những người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ bị Viện kiểm sát phát hiện, gồm những trường hợp: Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, không có quyết định tạm giữ, Viện kiểm sát đã huỷ bỏ quyết định tạm giữ; người bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do; Viện kiểm sát không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ; đã hết thời hạn tạm giữ mà không có biện pháp ngăn chặn nào được áp dụng thay thế; Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh tạm giam, không gia hạn tạm giam; người đã có quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giam; người đã có quyết định trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; người đã có quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án mà không bị giam giữ về hành vi phạm tội khác”. Trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, nếu phát hiện trường hợp có dấu hiệu oan, sai, Viện kiểm sát phải kịp thời xác minh, đồng thời chuyển các tài liệu đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.  

Thứ năm, khi kiểm sát tại cơ sở giam giữ, nếu nhận được đơn khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thì KSV phải lập biên bản ghi nhận việc tiếp nhận đơn với cơ sở giam giữ, chuyển cho đơn vị có thẩm quyền giải quyết, đồng thời sao gửi đến đơn vị, bộ phận kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, nếu xét thấy cần thiết thì KSV có thể “trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và những người có liên quan để xác minh nội dung khiếu nại, tố cáo; trực tiếp giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc chấp hành các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam”.

1.4. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

1.4.1. Hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất để Nhà nước quản lý tất cả các vấn đề trong xã hội và cũng là phương tiện quan trọng của người dân để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, để bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam, trước hết các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKS cần phải được quy định một cách đầy đủ, cụ thể, rõ ràng; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng…. Từ đó tạo tiền đề cho VKS hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy phạm pháp luật về QCN trong hoạt động tố tụng cũng như trong công tác kiếm sát việc tạm giữ, tạm giam, cần phải thường xuyên hệ thống hóa, pháp điển hóa nhằm sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật chưa phù hợp với thực tiễn, loại bỏ những quy định lạc hậu, kịp thời ban hành các văn bản pháp luật mới phù hợp với những đòi hỏi và nhu cầu thực tiễn của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đặt ra cho lĩnh vực này.

1.4.2. Bố trí nhân lực và năng lực, trình độ chuyên môn, nhận thức, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, Kiểm sát viên

  Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng mang tính quyết định của mọi hoạt động, trong đó có hoạt động của ngành KSND nhằm bảo đảm QCN trong hoạt động tố tụng nói chung và trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam nói riêng. Việc những người bị tạm giữ, tạm giam có được bảo đảm về QCN hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chuyên môn và nhận thức của những người trực tiếp làm công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam như đội ngũ cán bộ, KSV các cấp, bởi đây là người những trực tiếp thực hiện việc bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng. Một đội ngũ cán bộ, KSV có phẩm chất chính trị vững vàng, nhận thức đầy đủ vai trò của QCN và tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ sẽ tiến hành hoạt động kiểm sát theo hướng tiếp cận quyền của người bị tạm giữ, tạm giam chứ không thực hiện theo hướng có lợi cho cá nhân hay tổ chức nào đó. Trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp họ thực hiện các công việc được giao một cách cẩn thận, khách quan, đưa ra những quan điểm, đề xuất đường lối giải quyết phù hợp, chính xác, góp phần quan trọng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ QCN của VKSND. Trái lại, họ sẽ làm việc một cách qua loa, đại khái, không chú tâm đến việc bảo vệ quyền, lợi ích của người khác, thậm chí có thể lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân hoặc xâm phạm đến các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam.

1.4.3. Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và các cơ quan tư pháp

Là những cơ quan thực hiện quyền tư pháp trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta, các cơ quan tư pháp hình sự (bao gồm VKS, Cơ quan điều tra, Tòa án và Cơ quan Thi hành án hình sự) tham gia vào từng giai đoạn tố tụng hình sự, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác nhau để giải quyết các vụ án hình sự. Do đó, để bảo đảm việc hoạt động của các cơ quan được thông suốt, có hiệu quả thì cần phải có một cơ chế phối hợp thống nhất và đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau và giữa VKS với Cơ quan thi hành án.

Việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án) là cơ sở để xác định trách nhiệm của từng cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, nhằm giải quyết các vụ án một cách kịp thời, khách quan, toàn diện, đồng thời không để xảy ra trường hợp oan, sai từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng; là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả bảo đảm QCN trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Mối quan hệ phối hợp trên là một đòi hỏi khách quan từ thực tiễn, bởi hệ thống pháp luật nước ta mặc dù tương đối đầy đủ, nhưng trong bản thân mỗi đạo luật, trong các chế định hay ngay trong các quy định của pháp luật vẫn còn những khó khăn, vướng mắc trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật. Mặt khác, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực của đội ngũ các Điều tra viên, KSV, Thẩm phán cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc phối hợp giữa VKSND với các cơ quan tiến hành tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS cũng như quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được thực thi có hiệu quả.

Trong khi đó, để công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đạt chất lượng, hiệu quả cao, chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực hiện, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa VKS và Cơ quan Thi hành án hình sự – các cơ sở giam giữ. Mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan được thể hiện cụ thể như sau: Cơ sở giam giữ có trách nhiệm phối hợp với VKS khi VKS tiến hành kiểm sát tại cơ sở giam giữ, cử cán bộ phối hợp khi KSV gặp, hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam, kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam và thực hiện ngay quyết định trả tự do cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền; Việc kiểm sát hàng ngày tại nhà tạm giữ, hàng tuần tại trại tạm giam của VKS phải được ghi vào sổ, nếu phát hiện vi phạm thì phải lập biên bản có ký xác nhận của đại diện cơ sở giam giữ và KSV; Cơ sở giam giữ có trách nhiệm bố trí phòng hoặc địa điểm làm việc; cung cấp hồ sơ, tài liệu và báo cáo các nội dung theo yêu cầu để VKS thực hiện kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật [5]. Sự phối hợp trên góp phần không nhỏ trong bảo đảm việc thi hành tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được tôn trọng và bảo vệ.

1.4.4. Một số điều kiện khác

– Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo đơn vị: Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy hiệu quả công tác. Lãnh đạo đơn vị cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc trong việc tiến hành các công tác nghiệp vụ nhằm kịp thời phát hiện, khắc phục những thiếu sót, vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tăng cường trách nhiệm và phát huy tính chủ động của KSV trong việc áp dụng pháp luật đối với từng khâu công tác kiểm sát, trong đó có công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong ngành KSND: Thanh tra là hoạt động xem xét, phòng ngừa, đánh giá, xử lý theo quy định của pháp luật và quy định của ngành KSND khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, vi phạm phẩm chất đạo đức của cán bộ kiểm sát. Kiểm tra là hoạt động xem xét, thẩm định việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao đối với các đơn vị, cán bộ, KSV. Giám sát đối việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, người có thẩm quyền trong ngành KSND là yêu cầu quan trọng mang tính thường xuyên nhằm kịp thời ngăn chặn các hành vi có nguy cơ xâm hại đến QCN, quyền công dân và xử lý các vi phạm về QCN, quyền công dân đã xảy ra để hạn chế tới mức thấp nhất các vi phạm về QCN trong hoạt động tố tụng, quyền của người bị tạm giữ, tạm giam.  

– Chính sách về tiền lương: Chính sách tiền lương phù hợp sẽ khuyến khích những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt và yên tâm cống hiến trí tuệ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Bởi lẽ, đây là hoạt động đặc thù, đòi hỏi KSV phải có sự đầu tư lớn về thời gian để tích lũy kiến thức pháp luật và kinh nghiệm công tác thực tiễn. Đồng thời, đây là lĩnh vực nhạy cảm, các quyết định của VKSND thường có sự ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của những người bị buộc tội nên những đối tượng này có thể tiếp cận KSV để mua chuộc nhằm làm lợi cho họ. Vì thế, cần có chế độ đãi ngộ về tiền lương phù hợp để cán bộ, KSV yên tâm công tác, hạn chế hành vi tiêu cực trong ngành KSND, bảo đảm tính đúng đắn trong thực hiện các nhiệm vụ của KSV.

– Điều kiện về cơ sở vật chất – kỹ thuật: Cơ sở vật chất – kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác của không chỉ ngành KSND mà còn của các cơ quan tư pháp và cơ quan Nhà nước khác. Việc đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất – kỹ thuật cho VKSND tác động không nhỏ đến nhận thức của xã hội về vai trò của VKSND cũng như việc bảo đảm hiệu quả hoạt động VKSND, góp phần thúc đẩy VKSND thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng.     

Tiểu kết Chương 1

Tạm giữ, tạm giam là những BPNC quan trọng trong TTHS nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, kịp thời, thuận lợi và chính xác. Tuy nhiên, đây cũng là những BPNC nghiêm khắc nhất, ảnh hưởng nhiều nhất đến các QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Do vậy đòi hỏi cần có những cơ chế để bảo vệ QCN của người bị tạm giữ, tạm giam không bị xâm phạm xuyên suốt các giai đoạn TTHS, trong đó cơ chế kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND đóng một vai trò rất quan trọng để QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Nội dung tại Chương 1 của luận văn trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về QCN nói chung, QCN của người bị tạm giữ, tạm giam và vai trò cũng như các phương thức, điều kiện bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND. Công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam không chỉ nhằm bảo vệ các QCN của người bị tạm giam, tạm giam được pháp luật ghi nhận mà còn tạo điều kiện cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt chất lượng, hiệu quả cao nhất, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, hoàn thành nhiệm vụ “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân” mà Nhà nước đã giao phó.

Theo Ths.Kểm sát viên Vũ Minh Hải

Bài viết liên quan