QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGƯỜI KHÔNG QUỐC TỊCH
I. Khái niệm về quốc tịch và người không quốc tịch
1.1. Khái niệm về quốc tịch
Quốc tịch là một phạm trù chính trị pháp lý, là mối quan hệ pháp lý đặc biệt giữa nhà nước và cá nhân, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cá nhân và nhà nước và là căn cứ pháp lý để xác định công dân một quốc gia. Về mặt pháp lý, quốc tịch là căn cứ để xác định công dân của một quốc gia, điều kiện pháp lý tiên quyết để một cá nhân có thể được hưởng các quyền và nghĩa vụ công dân đối với một nhà nước.
Tham khảo thêm: thủ tục cấp sổ đỏ cho đất thuê tiền hàng năm
1.2. Khái niệm người không quốc tịch
Theo Điều 1 Công ước về vị thế của người không quốc tịch 1954, thuật ngữ “người không quốc tịch” được định nghĩa là người không được coi là công dân của bất kỳ quốc gia nào theo pháp luật hiện hành của quốc gia đó.
2. Pháp luật quốc tế về tình trạng người không quốc tịch
Trước hết, Công ước năm 1954 về Quy chế của người không quốc tịch, Công ước năm 1954 là điều ước quốc tế được thông qua với mục đích đảm bảo cho người không quốc tịch được thụ hưởng những quyền, tự do tối thiểu của con người mà không chịu bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Theo Công ước năm 1954, người không quốc tịch được đảm bảo một số quyền tiêu biểu như: quyền được tiếp tục cư trú và không bị trục xuất một cách độc đoán, quyền sở hữu tài sản (động sản và bất động sản),..hay các quyền tự do thiết yếu khác, pháp luật của một số nước như Liên bang Nga, Belarus, Hungary, Ba Lan,… đều quy định rõ địa vị pháp lý của người không quốc tịch. Luật của Liên Bang Nga, Belarus, Hungary đều quy định theo hướng bảo đảm cho người không quốc tịch có quyền sở hữu tài sản ngang bằng với công dân nước ngoài. Khác với Công ước năm 1954, Công ước năm 1961 thiết lập một phương pháp lý quốc tế, theo đó các cá nhân được đảm bảo quyền có một quốc tịch. Cụ thể như sau: Công ước năm 1961 quy định các quốc gia không được đưa ra quyết định về hủy, tước quốc tịch dựa trên lý do chủng tộc, tôn giáo, giới tính. Ngoài ra còn quy định về phòng ngừa tình trạng không quốc tịch khi sinh
Ngoài ra , trong khuôn khổ của Liên hợp quốc có nhiều quy định trong các điều ước quốc tế có liên quan nhằm đảm bảo quyền có quốc tịch, qua đó hạn chế tình trạng không quốc tịch như: Công ước về loại bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc (Điều 5), Công ước Geneva,… Hơn nữa, Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc còn ban hành nhiều nghị quyết liên quan đến quyền có quốc tịch và giảm thiểu tình trạng không quốc tịch . Ngoài các quy định mang tính toàn cầu như trên các khu vực cũng có những khuôn khổ pháp lý và cơ chế riêng trong việc xử lý các vấn đề về tình trạng không quốc tịch. Ví dụ như: Công ước châu Mỹ về quyền con người (Điều 20), Hiến chương châu Phi về quyền và chăm sóc trẻ em (Điều 6) đều khẳng định quyền có một quốc tịch với tư cách là quyền con người.
3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng người không quốc tịch
Thứ nhất, Có sự xung đột pháp luật các nước về vấn đề quốc tịch
Thứ hai, Khi một người đã mất quốc tịch cũ nhưng chưa có quốc tịch mới.
Thứ ba, Khi trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng riêng biệt nguyên tắc “quyền huyết thống” mà cha mẹ là người không có quốc tịch. . Có những quốc gia chỉ áp dụng nguyên tắc huyết thống, trẻ em có cha mẹ là người không quốc tịch đương nhiên cũng là người không quốc tịch. Chẳng hạn như, ở các quốc gia như Ý, Lào, Thái Lan,… đây là các nước áp dụng nguyên tắc huyết thống sẽ làm cho người con không có quốc tịch khi cha mẹ là người không quốc tịch. Tại một số quốc gia, nguyên tắc huyết thống chỉ được áp dụng với những người cùng huyết thống với cha. Nghiên cứu của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn về phân biệt giới tính trong pháp luật quốc tịch của một số quốc gia – UNHCR, có dẫn chứng một việc cụ thể tại Li- băng: “Sleiman sinh ra tại Li-băng, sinh sống tại quốc gia này từ khi sinh ra đến nay đã hơn 50 năm nhưng không có quốc tịch Li-băng. Cha của Sleiman đã kết hôn với một người phụ nữ quốc tịch Li-băng và sinh ra ông, nhưng mẹ ông không được quyền trao quốc tịch cho ông theo pháp luật của Li-băng”.
Tìm hiểu thêm: Cải chính giấy khai sinh cho con theo quy định của pháp luật
4. Những hậu quả của tình trạng không quốc tịch
Những người không quốc tịch sẽ không cần thực hiện nghĩa vụ công dân nhưng những người không quốc tịch gặp nhiều bất lợi , họ có điạ vị pháp lí thấp và hạn chế hơn so vs công dân quốc gia sở tại và ng quốc tịch nước ngoài. Họ ko đc hưởng quyền mà ác bộ phận cư dân khác đc hưởng, ko đc hưởng chế độ bảo hộ công dân và khi đến quốc gia nào cũng có thể bị trụC xuất.. Ngoài ra, tình trạng người không quốc tịch làm cho Nhà nước gặp khó khăn trong việc quản lí dân cư.
5. Biện pháp khắc phục
Trước hết, để hạn chế tình trạng không quốc tịch và đảm bảo quyền và lợi ích cho những người không quốc tịch các nước đã kí kết nhiều điều ước quốc tế như Công ước Lahay 1930 về xung đột quốc tịch, Công ước năm 1954 về địa vị pháp lí của người không quốc tịch, Công ước của Liên Hợp quốc năm 1961 về hạn chế tình trạng không quốc tịch…Bên cạnh đó, mỗi quốc gia quy định trong pháp luật nước mình các biện pháp phù hợp nhằm giải quyết tình trạng ko quốc tịch ví dụ như tạo điều kiện để ng ko quốc tịch đc gia nhập quốc tịch của quốc gia đó.
II. Liên hệ thực tiễn Việt Nam về tình trạng người không quốc tịch
1. Pháp luật Việt Nam về người không quốc tịch và quyền của người không quốc tịch
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã có một số quy định liên quan đến người không quốc tịch và tình trạng không quốc tịch. Cụ thể như sau: Điều 8 quy định cụ thể về hạn chế tình trạng không quốc tịch, Khoản 1 Điều 16 quy định về Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, Điều 17 quy định về Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch. Người không quốc tịch cư trú trên lãnh thổ Việt Nam sẽ được thụ hưởng các quyền con người cơ bản như Về quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, và được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 16, Điều 19); Bộ luật hình sự 2015 (Điều 1, Điều 3), Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 3 và Điều 16), quyền của người không quốc tịch trong đăng ký hộ tịch, trợ giúp pháp lý được cụ thể hóa trong quy định của Luật hộ tịch năm 2014 (Điều 6, Điều 35, Điều 37)…
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, chưa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người không quốc tịch. Ví dụ như một số quyền an sinh xã hội còn bị hạn chế. Cho đến nay Việt Nam chưa ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào để trực tiếp xử lý vấn đề tình trạng người không quốc tịch.
Tìm hiểu thêm: Ly hôn có yếu tố nước ngoài
2. Nguyên nhân, hậu quả về tình trạng người không quốc tịch ở Việt Nam trong những năm gần đây
Theo UNHCR báo cáo số lượng lớn dân số không quốc tịch ở Việt Nam là 30.581 người. [1]Về nguyên nhân, Trong số các nguyên nhân dẫn đến tình trạng không quốc tịch thì tại Việt Nam, có một số nguyên nhân chính.
Thứ nhất, do xung đột pháp luật giữa các nước về vấn đề quốc tịch. Nguyên nhân này là một trong các lý do dẫn đến việc xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam mà có một bên hoặc cả hai bên cha mẹ là người không quốc tịch còn gặp nhiều khó khăn vì cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, dẫn đến một số trường hợp trẻ em không được xác định quốc tịch. Vấn đề người gốc Việt định cư ở Campuchia là vấn đề mang tính lịch sử, tồn tại từ lâu. Tuy nhiên, do chính sách, pháp luật của Campuchia có thay đổi, nên những năm qua, người gốc Việt sinh sống tại Campuchia di cư tự do về Việt Nam ngày càng nhiều. Hầu hết họ đều không có giấy tờ chứng minh nhân thân, quốc tịch; trẻ em không được khai sinh… Di cư trong vùng biên giới Việt Nam – Lào do chịu tác động của nhiều yếu tố như kinh tế, phong tục, tập quán, quan hệ gia đình, dòng tộc. Theo Điều 8 Luật Quốc tịch 2008, việc thực hiện áp dụng quy định còn còn nhiều bất cập, vì để được nhập quốc tịch Việt Nam thì yêu cầu phải có nơi thường trú tại Việt Nam và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp thẻ thường trú. Quy định tại Điều 22 Luật quốc tịch năm 2008 đã tạo cơ sở pháp lý giải quyết việc nhập quốc tịch Việt Nam cho hàng ngàn người không quốc tịch đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn hàng chục ngàn người không quốc tịch chưa đủ điều kiện gia nhập quốc tịch Việt Nam do thời gian cư trú dưới 20 năm.
Về hậu quả, người không quốc tịch không phải thực hiện nghĩa vụ công dân đối với quốc gia nào nhưng họ lại gặp bất lợi lớn, địa vị pháp lý của người không quốc tịch rất thấp và bị hạn chế so với công dân nước sở tại và người có quốc tịch nước ngoài. Bên cạnh đó, đa số người di cư tự do chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, tảo hôn, vì vậy, nhiều trẻ em sinh ra không được đăng ký khai sinh, không có quốc tịch. Người dân gặp rất nhiều khó khăn để hòa nhập với cộng đồng, không được hưởng các chế độ, chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Khi chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự là người không quốc tịch thì các cơ quan có thẩm quyền phải dựa vào những căn cứ nhất định để luật áp dụng chính xác đối với họ. Tuy nhiên điều này là rất khó vì điều này còn phải dựa vào nhiều yếu tố khác nhau như: chủ thể áp dụng, lĩnh vực mà người không quốc tịch tham gia và luật điều chỉnh lĩnh vực đó…
Thực tế hiện nay số người không có quốc tịch cũng như không rõ quốc tịch cư trú làm ăn sinh sống ổn định lâu năm trên lãnh thổ Việt Nam là tương đối nhiều. Việc không giải quyết được việc nhập quốc tịch Việt Nam cho họ không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của họ mà còn làm phức tạp thêm trong công tác quản lý.
3. Biện pháp khắc phục, hạn chế tình trạng người không quốc tịch
[1] Một là, Cân nhắc sớm tham gia Công ước về vị thế của người không quốc tịch 1954.
[2] Hai là, Rà soát các quy định còn bất cập để sửa đổi, bổ sung các quy định về người không quốc tịch trong Luật Hộ tịch và Luật Quốc tịch bảo đảm khả thi trong thực tiễn. Ví dụ, quy định linh hoạt yêu cầu bắt buộc phải có thẻ thường trú, có thể thay thế bằng các giấy tờ, chứng nhận khác
[3]Ba là, Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước láng giềng như Lào, Trung Quốc, Campuchia để giải quyết các vấn đề liên quan đến người không quốc tịch ở Việt Nam. Có thể kể đến như “Thỏa thuận giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc giải quyết vấn đề người di cư tự do, kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước”, “Biên bản Cửa Lò về giải quyết vấn đề di cư tự do, kết hôn không giá thú trong khu vực biên giới hai nước”, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 1830/QĐ-BTP triển khai đề án “Giải quyết các vấn đề về quốc tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ Campuchia về nước”
[4] Bốn là, Ứng dụng tối đa lợi thế của công nghệ thông tin vào hoạt động đăng ký khai sinh, theo đó, sớm hoàn thiện và triển khai Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch trên phạm vi cả nước.