Bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam Chương 3

Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

3.1. QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM

Quyền con người là giá trị phổ quát mà tất cả người dân các quốc gia đều mong muốn quyền của mình được bảo đảm; quyền này được nêu trong hầu hết các điều ước quốc tế. Ở Việt Nam, bảo đảm và thúc đẩy QCN, mà trước hết là quyền dân tộc tự quyết – quyền được ghi nhận tại Điều 1 của Công ước về các quyền dân sự chính trị (ICCPR), chính là mục tiêu và thành quả quá trình đấu tranh, hy sinh gian khổ của nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà Việt Nam tiến hành suốt hơn 30 năm qua, con người luôn được Đảng, Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước; thúc đẩy và bảo vệ QCN là nhân tố quan trọng trong phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để xác lập cơ sở cho việc bảo vệ và thúc đẩy QCN, Đảng ta đã xác định những tư tưởng và đường lối rõ ràng về vấn đề nhân quyền.

Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về QCN được hình thành, đúc rút từ lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thể hiện trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng.  Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đòi hỏi công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật là chỗ dựa cho nhân dân trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người[4]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thiết lập vững chắc hành lang pháp lý về QCN: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”[9]. Gần đây nhất, tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới tiếp tục khẳng định và quan tâm nữa trong hoàn thiện các cơ chế và phương thức bảo đảm và bảo vệ quyền con người: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân” [3]. Ngoài ra, vấn đề về QCN cũng được ghi nhận một cách cụ thể, rõ nét thông qua những quy định mới trong Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015, qua đó phản ánh nhận thức về QCN ở nước ta ngày càng được nâng cao.

BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa nhiều nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 về QCN, quyền công dân, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đối với người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị tạm giữ, tạm giam, Bộ luật đã bổ sung nhiều quyền để giúp họ có điều kiện được bào chữa, cũng như bảo đảm quyền của họ trong TTHS; quy định chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ QCN của họ. Với định hướng trên, Hiến pháp, BLTTHS và Luật Tổ chức VKSND đã trao cho VKSND vị trí là một cơ quan độc lập, chỉ tuân thủ theo pháp luật để kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, góp phần bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, đầy đủ. Ngoài ra, thông qua Chỉ thị số 26-CT ngày 9/11/2018 của Bộ Chính trị  về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án, vụ việc [1] và Hướng dẫn số 04-HD/TW, ngày 09/12/2020 của Ban Bí thư về thực hiện Chỉ thị số 26 đã tạo điều kiện thuận lợi, là công cụ pháp lý hiệu quả để VKS thực hiện tốt công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của ngành [2].

Hằng năm, trên cơ sở Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, kế hoạch công tác kiểm sát của Viện trưởng VKSND tỉnh, VKSND cấp huyện ban hành kế hoạch công tác kiểm sát của đơn vị, của từng khâu, bộ phận công tác, kịp thời phát động các phong trào thi đua, bảo đảm việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam hoàn toàn phù hợp, khách quan, đồng thời bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật. Những năm gần đây, VKSND ngày càng nhận thức và hoạt động quyết liệt hơn trong nhiệm vụ bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Các KSV luôn tuân thủ tuyệt đối các nguyên tắc như: thực hành quyển công tố, kiểm sát điều tra độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không chịu sự tác động từ các yếu tố bên ngoài; tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội, các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan điều tra, điều tra viên đối với việc giải quyết vụ án phải được KSV kiểm sát chặt chẽ; yêu cầu thay đổi Điều tra viên, yêu cầu hủy bỏ ngay các quyết định không đúng quy định pháp luật, xâm phạm đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam,…

3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Bảo đảm QCN là vấn đề rất quan trọng, luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quan tâm, bảo vệ. Bằng nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Hiến pháp; Bộ luật Hình sự; BLTTHS; Luật Thi hành án hình sự; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam;… Nhà nước đã chính thức ghi nhận và bảo đảm QCN, quyền công dân, coi đó như những chế định quan trọng. BLTTHS năm 2015 của nước ta đã thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, là văn bản pháp lý mang tính cốt lõi, qua đó ghi nhận và bảo vệ QCN mà trực tiếp là của người bị bị tạm giữ, tạm giam thông qua nhiều chế định khác nhau, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường hơn nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm QCN, quyền công dân. Tuy vậy, sau hơn 6 năm đi vào đời sống thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập, gây khó khăn trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định trong BLTTHS như sau:

– Điểm b khoản 1 Điều 73 quy định quyền của người bào chữa: “Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can”[15]. Quy định trên vẫn còn chung chung, chưa thực sự rõ ràng: Khi nào thì người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý, khi nào thì không, điều này phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, do người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung quyết định. Vì vậy, luật cần quy định rõ các trường hợp người bào chữa được quyền hỏi bị can, người bị tạm giữ, được quyền tham gia một số hoạt động điều tra cụ thể.

– Khoản 2 Điều 118 quy định về thời hạn tạm giữ: “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 03 ngày” [15]. Quy định này không có gì thay đổi so với BLTTHS năm 2003, tức là vẫn còn chưa cụ thể, dễ làm cho chủ thể tiến hành tố tụng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, tạo ra cho chủ thể áp dụng một phạm vi khá rộng. Trường hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt”? Điều đó hoàn toàn do chủ thể tiến hành tố tụng nhận định và thực hiện. Vì vậy, để bảo đảm tính chặt chẽ, bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam, luật cần phải quy định cụ thể từng trường hợp; không nên sử dụng các văn bản dưới luật để giải thích hoặc hướng dẫn vì dễ tạo ra sự tùy tiện và áp dụng không thống nhất giữa những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

– Nhập khoản 1 Điều 119 BLTTHS vào chung với khoản 2 Điều 119 BLTTHS, theo hướng bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng phải bị tạm giam, còn các trường hợp khác chỉ bị tạm giam khi xác định người đó phạm tội mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm và thuộc một trong các trường hợp:

“a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này” [15].

Giải pháp này nhằm khắc phục thực trạng cơ quan có thẩm quyền lạm dụng biện pháp tạm giam theo quy định tại khoản 1 Điều 119 BLTTHS. Mặt khác, khi đã nhập khoản 1 và khoản 2 Điều 119 của BLTTHS, thì điều kiện tạm giam chung cho mọi trường hợp được xác định sẽ tránh sự tùy nghi và sẽ giảm mạnh tỷ lệ số người bị tạm giam trong vụ án hình sự trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng. Như vậy, giải pháp nêu trên có tính đột phá, nhằm giảm thiểu số người bị tạm giam trong vụ án hình sự, bảo đảm tốt hơn QCN trong lĩnh vực TTHS.

– Bổ sung vào khoản 4 Điều 119 BLTTHS về trường hợp bị can, bị cáo là người duy nhất đang phải nuôi, chăm sóc người thân thích của mình là người tàn tật nặng, bệnh nặng, già yếu, có nhược điểm về tâm thần nhưng họ thiếu sự chăm sóc và không thể tự mình sinh sống được thì có thể không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Họ chỉ bị tạm giam trong trường hợp có dấu hiệu bỏ trốn, có các hành động gây cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Giải pháp này nhằm bổ sung trường hợp bị can, bị cáo có hoàn cảnh éo le, không có người chăm sóc người thân thích của mình như đã nêu; như vậy sẽ phù hợp với hoàn cảnh của bị cáo và khẳng định được tính nhân văn của chính sách pháp luật.

– Để khắc phục việc tạm giam kéo dài do các cơ quan tố tụng không hủy bỏ biện pháp tạm giam mặc dù việc tạm giam đó là không cần thiết, thì cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 125, khoản 7 Điều 173 BLTTHS theo hướng quy định rõ hơn trách nhiệm của Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án trong việc xem xét quyết định hủy bỏ BPNC hoặc có thể thay thế bằng BPNC khác khi không còn căn cứ áp dụng. Theo đó, khoản 2 Điều 125 BLTTHS được thiết kế lại như sau: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc có thể thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác khi không còn căn cứ áp dụng…”[15]; và sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 173 BLTTHS như sau: “Trong thời hạn tạm giam, khi không còn căn cứ tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”.

– Sửa đổi, bổ sung Điều 241 BLTTHS theo hướng quy định rõ trách nhiệm của VKS sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra phải xem xét, kiểm tra toàn diện các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam để xác định có cần thiết phải tiếp tục tạm giam với bị can hay không, nếu không còn cần thiết, không có căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam thì phải thay đổi, hủy bỏ kịp thời. Theo đó, Điều 241 BLTTHS được thiết kế lại như sau: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này. Trường hợp có bị can đang bị tạm giam, Viện kiểm sát phải xem xét, kiểm tra toàn diện các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam để áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ kịp thời”.

– Sửa đổi Điều 278 BLTTHS về điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam thay cho thuật ngữ “quyết định” và “nếu thấy cần tiếp tục” mang tính tuỳ nghi, không rõ ràng. Điều 278 BLTTHS cần được thiết kế như sau: “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định sau khi xem xét đầy đủ các căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật này; đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu có căn cứ xác định cần phải tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”.

– Sửa đổi Điều 329 BLTTHS về căn cứ tạm giam “xét thấy cần tiếp tục” mang tính tuỳ nghi, theo nhận định chủ quan của Hội đồng xét xử, thành điều kiện áp dụng biện pháp cụ thể, đó là: “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà bị xử phạt tù nhưng có căn cứ xác định cần phải tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành án thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo; thời hạn tạm giam bị cáo là 45 ngày kể từ ngày tuyên án…”.

3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong ngành kiểm sát nhân dân

– Tăng cường công tác quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành về chuyên môn nghiệp vụ trong toàn ngành KSND nhằm xử lý kịp thời, chính xác, đúng pháp luật đối với các vụ việc phát sinh trong quá trình kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Chú trọng công tác chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới thông qua nhiều hình thức, như: Trả lời thỉnh thị, ban hành các Hướng dẫn, Thông báo rút kinh nghiệm, tập huấn nghiệp vụ, mở các lớp bồi dưỡng về kỹ năng kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ; Lãnh đạo các VKSND cấp huyện chú trọng việc chỉ đạo khâu công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, tham gia các cuộc kiểm sát định kỳ, tạo điều kiện cho các cán bộ, KSV làm lĩnh vực này tham gia các khóa bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ, củng cố và cập nhật các kiến thức, quy định mới của pháp luật, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm. Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với khâu công tác kiểm sát tạm giữ, tạm; thường xuyên mở các hội nghị tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu cho đội ngũ cán bộ, KSV làm công tác này để giúp cho cán bộ, KSV có điều kiện để nghiên cứu, nắm chắc các quy định của pháp luật và tiếp cận, học hỏi, trau dồi các kinh nghiệm, kiến thức thực tiễn, từ đó bổ sung, hoàn thiện những kỹ năng cần thiết phục vụ công việc chuyên môn.

 – Lãnh đạo VKS các cấp thường xuyên quan tâm, quản lý, chỉ đạo điều hành, xác định công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát hoạt động Tư pháp. Trong chương trình, kế hoạch công tác hàng năm phải đề ra những nội dung, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể: Kiểm sát thường kỳ, hàng quý theo chuyên đề và kiểm sát toàn diện 06 tháng, một năm … để từng bước nâng cao chất lượng các cuộc kiểm sát, trên cơ sở đó đánh giá chất lượng công tác của đơn vị và cá nhân.

– Viện Kiểm sát cấp dưới thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam theo quy chế, quy định của ngành. Thông báo kịp thời, đầy đủ cho cơ quan điều tra, bộ phận kiểm sát điều tra những vi phạm, tội phạm xảy ra tại cơ sở giam giữ; những khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm của ngư­ời bị tạm giữ, người bị tạm giam.

3.2.3. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp và giữa Viện kiểm sát với các cơ quan pháp luật có liên quan

– Tăng cường công tác phối hợp giữa các đơn vị Viện kiểm sát và giữa VKS với các cơ quan có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam; thường xuyên trao đổi thông tin nghiệp vụ và kinh nghiệm công tác giữa các đơn vị VKS trong và ngoài địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, KSV học hỏi, hỗ trợ lẫn nhau trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

Tăng cường công tác phối hợp giữa VKS với Công an và Tòa án để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự trên cơ sở quy chế của Ngành và quy định của pháp luật. Tăng cường phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp theo quy chế phối hợp giữa hai ngành, bảo đảm thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc đối với hoạt động kiểm sát nhà tạm giữ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, bảo đảm các quyền lợi, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.

3.2.4. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Hiện nay, nhận thức của cán bộ, KSV trong ngành KSND về bảo đảm QCN vẫn còn hạn chế khi hầu hết KSV chỉ được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát và nghiên cứu các văn bản pháp luật chuyên ngành, còn pháp luật về QCN vẫn là một lĩnh vực mới mẻ, chưa được quan tâm đúng mức. Điều này vô hình chung dẫn đến tình trạng thiếu chủ động trong việc bảo đảm QCN, nhất là trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, khiến một số trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam bị vi phạm một số quyền cơ bản. Để khắc phục được tình trạng này, cần nâng cao hơn nữa nhận thức, trách nhiệm cũng như kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, KSV trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam thông qua những cách thức sau:

– Nghiên cứu và nắm vững các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đối tượng, phạm vi, nội dung và các phương thức kiểm sát được quy định trong Luật tổ chức VKSND; Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, BLHS, BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Lãnh đạo đơn vị quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 18/6/2019 của Viện trưởng VKSND tối cao về “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự” để KSV nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Theo đó, đây là hoạt động nhằm bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. Vận dụng linh hoạt các phương thức kiểm sát gắn với hoạt động thực tế ở từng đơn vị để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát, đảm bảo kiểm sát toàn diện, có trọng tâm. Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam, KSV phải nắm bắt tình hình chấp hành pháp luật trong Nhà tạm giữ nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam và đề xuất lãnh đạo những biện pháp xử lý phù hợp.

– Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phát huy tính tự giác trong việc học tập, nghiên cứu, nắm vững các quy định của pháp luật, của ngành về công tác này; đòi hỏi mỗi cán bộ, KSV làm công tác tạm giữ, tạm giam phải tự rèn luyện kỹ năng, tự nghiên cứu học hỏi, trao đổi và tích lũy kinh nghiệm; nêu cao tinh thần trách nhiệm, khách quan, vô tư, tôn trọng pháp luật và đạo đức nghề nghiệp; hướng dẫn, giải thích pháp luật và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người bị tạm giữ, tạm giam thực hiện đầy đủ các quyền, lợi ích hợp pháp mà họ được hưởng hoặc không bị pháp luật hạn chế theo quy định của BLTTHS và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam…

3.2.5. Một số giải pháp khác                     

– Tăng cường việc kiểm sát hàng ngày đối với Nhà tạm giữ, thường xuyên trực tiếp hỏi các đối tượng bị tạm giữ, tạm giam trong việc thực hiện chế độ của Nhà tạm giữ để kịp thời phát hiện vi phạm. Chủ động kiểm sát tại cơ sở giam giữ theo phương châm gắn lực lượng kiểm sát tạm giữ, tạm giam với Nhà tạm giữ. Coi trọng việc đến cơ sở để kiểm sát hàng ngày tại nhà tạm giữ, hàng tuần kiểm sát trại tạm giam, hàng tháng kiểm sát trại giam nhằm kịp thời phát hiện các vi phạm trong công tác quản lý, giáo dục và thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Chú trọng đột xuất kiểm sát khi xảy ra các trường hợp người bị giam bỏ trốn, chết bất thường. Trước các cuộc trực tiếp kiểm sát thường kỳ đều phải chuẩn bị: nắm tình hình, đề xuất, quyết định kiểm sát, xây dựng kế hoạch, họp bàn xác định mục tiêu chính, nghiên cứu bổ sung quy định của pháp luật, cách thức để đạt được hiệu quả cao; Kiểm sát theo từng nội dung nhỏ trong kế hoạch, phản ánh đầy đủ vào biên bản; không bỏ sót các nội dung; mở rộng nội dung nếu thấy cần thiết.

– Tăng cường kiểm sát định kỳ và đột xuất nhằm kịp thời phát hiện vi phạm và áp dụng các biện pháp pháp luật để loại trừ vi phạm để bảo đảm chế độ, chính sách, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Khi tiến hành kiểm sát định kỳ có thể đi sâu kiểm sát toàn diện việc chấp hành pháp luật trong tạm giữ, tạm giam hoặc có thể kiểm sát những vấn đề thấy cần thiết hoặc phúc tra lại những vi phạm đã được phát hiện của cuộc kiểm sát trước mà VKS đã kháng nghị, kiến nghị yêu cầu sửa chữa, khắc phục và phòng ngừa vi phạm. Đột xuất kiểm sát cần được tiến hành khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc xét thấy cần thiết. Do vậy, nội dung kiểm sát phải bám sát với Chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, Hướng dẫn công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam; Chương trình, Kế hoạch của đơn vị để lựa chọn nội dung cho phù hợp; đồng thời quản lý, nắm chắc tình hình chấp hành pháp luật về tạm giữ, tạm giam ở địa phương. Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm về việc vận dụng các quy định của pháp luật vào hoạt động thực tiễn để phát hiện những vấn đề còn vướng mắc, bất cập, những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn để tham mưu với các cấp có thẩm quyền trong việc hướng dẫn, xây dựng và hoàn thiện pháp luật.

– Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ trong toàn ngành KSND nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV làm công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Phân công, bố trí KSV, công chức có năng lực, trình độ phù hợp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.

– Quan tâm hơn nữa về chế độ tiền lương, phụ cấp, ưu đãi đối với ngành KSND nhằm thu hút những người có năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức tốt lựa chọn và cống hiến cho ngành. Đồng thời, chính sách về tiền lương phù hợp sẽ tạo động lực và là cơ sở để đội ngũ cán bộ, KSV yên tâm công tác, không bị cám dỗ bởi những lợi ích bên ngoài, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi tiêu cực có thể xảy ra trong ngành KSND, qua đó tạo điều kiện cho cán bộ, KSV có thể toàn tâm toàn ý tập trung nguồn lực trí tuệ của mình để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiệm vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý, thi hành đối với người bị tạm giữ, tạm giam, bảo đảm các quyền, chế độ của họ được thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật. Trụ sở làm việc của VKSND các cấp cần được quan tâm sửa chữa nhằm đảm bảo tiêu chuẩn làm việc như: mỗi KSV cần có phòng làm việc riêng, cơ quan cần có đầy đủ phòng nghỉ, phòng trực, phòng ăn uống, sinh hoạt chung, phòng họp, kho lưu trữ,… Tăng cường đầu tư phương tiện, kỹ thuật cho mỗi đơn vị VKSND như: phương tiện đi lại (xe ô tô, mô tô), máy chiếu, máy ảnh, máy vi tính, máy in, máy phô tô để phục vụ công tác, tránh tình trạng lệ thuộc vào các cơ quan khác. Các cơ sở giam giữ cũng cần được quan tâm đầu tư phù hợp về cơ sở vật chất (các buồng tạm giữ, tạm giam, hệ thống cấp thoát nước, điện, đèn chiếu sáng,…), các đồ dùng thiết yếu dành cho người bị tạm giữ, tạm giam (chăn, màn, khăn mặt, thuốc, dụng cụ y tế,…).

Tiểu kết Chương 3

BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật và đi vào thực tiễn cuộc sống được hơn 6 năm, tuy nhiên đã bộc lộ một số vướng mặt, bất cập, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong áp dụng một số quy định, trong đó có những quy định liên quan đến tạm giữ, tạm giam và các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam, ảnh hưởng đến cơ chế bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam mà VKSND là một trong những chủ thể quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công cuộc bảo vệ QCN nói chung và QCN của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam đã nêu ở Chương 2 của luận văn, trong đó tập trung vào giải pháp sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS bởi đây là cơ sở pháp lý để áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam, là tiền đề để tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ QCN trong hoạt động tố tụng của VKSND. Bên cạnh đó, qua thực tiễn công tác tại VKSND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, tác giả cũng đề xuất, kiến nghị một số nội dung nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam trong thời gian tới như: Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ trong ngành KSND; Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa VKS các cấp và giữa VKS với các cơ quan pháp luật có liên quan; Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, KSV trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam; Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị làm việc, chế độ lương, phụ cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ, KSV.

Theo Ths.Kểm sát viên Vũ Minh Hải

Bài viết liên quan