Bảo hiểm là gì? khái niệm, đặc điểm, phân loại các sản phẩm bảo hiểm ở VIỆT NAM. Tìm hiểu pháp luật của một số quốc gia trên thế giới trong quy định về sản phẩm bảo hiểm.

BẢO HIỂM LÀ GÌ? KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, PHÂN LOẠI CÁC SẢN PHẨM BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM.

TÌM HIỂU PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI TRONG QUY ĐỊNH VỀ SẢN PHẨM BẢO HIỂM.

So với thời điểm sơ khai của hoạt động bảo hiểm với chỉ duy nhất một loại hình bảo hiểm là bảo hiểm hàng hải thì đến thời điểm hiện tại, có rất nhiều các loại hình bảo hiểm khác nhau được khai thác phục vụ cho mọi mặt đời sống xã hội. Để quản lý các loại hình bảo hiểm này, nhà nước đã phân loại thành các nhóm dựa trên các tiêu chí khác nhau với từng loại đối tượng và mục đích.  Thực tế trên thế giới lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm đã phát triển khá lâu đặc biệt là với những nước có nền kinh tế phát triển tuy nhiên thị trường bảo hiểm ở Việt Nam lại khá mới mẻ do vậy để hội nhập quốc tế thì pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam vẫn cần được hoàn thiện và phát triển hơn. Chính vì vậy nhóm chúng em xin chọn đề tài số 15 để phân tích làm rõ hơn nữa những vấn đề pháp lý về bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm và kiến nghị để phát triển sản phẩm bảo hiểm ở Việt Nam.

1. Tổng quan về sản phẩm bảo hiểm

1.1. Khái niệm

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm

Mặc dù ra đời rất sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm, ta có thể định nghĩa về bảo hiểm dưới nhiều góc độ khác nhau:

Theo quy luật thống kê, bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp có rủi ro xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, với điều kiện người tham gia bảo hiểm phải nộp một khoản phí cho bản thân hoặc cho người thứ ba. Điều này có nghĩa là người tham gia bảo hiểm chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách một khoản phí để lập quỹ dự trữ. Trong trường hợp xảy ra rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm sẽ lấy quỹ dự trữ để trợ cấp hoặc bồi thường trong phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.

Dưới góc độ tài chính, bảo hiểm là quá trình lập quỹ dự phòng bằng tiền nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi.  

Dưới góc độ pháp lý, bảo hiểm là sự cam kết bồi thường hoặc chi trả về mặt kinh tế, trong đó người tham gia bảo hiểm phải đóng một khoản phí gọi là phí bảo hiểm cho đối tượng được bảo hiểm theo các điều kiện mà bảo hiểm đã quy định. Người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường hoặc chi trả tiền cho đối tượng được bảo hiểm trong trường hợp có rủi ro xảy ra. 

Tham khảo thêm Tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có được hưởng chế độ thai sản

1.1.2. Khái niệm sản phẩm bảo hiểm

Sản phẩm bảo hiểm, hay còn gọi là “insurance products”, là một cam kết từ phía công ty bảo hiểm sẽ đảm bảo quyền lợi được chi trả hoặc bồi thường cho khách hàng bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Đây là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp bảo hiểm nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, và tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.

Phân tích ở phạm vi hẹp, sản phẩm bảo hiểm chính là những bảo đảm, những lợi ích cơ bản mà khách hàng có thể nhận được khi mua bảo hiểm.

Ở phạm vi rộng hơn, sản phẩm bảo hiểm phải bao gồm tất cả những quyền lợi mà người mua có thể nhận được trong quá trình marketing chứ không đơn thuần chỉ là những gì nhận được từ doanh nghiệp bảo hiểm, kể cả những lợi ích không cam kết trong hợp đồng bảo hiểm, chẳng hạn như các dịch vụ chăm sóc khách hàng.

Dù ở phạm vi rộng hay hẹp, sản phẩm bảo hiểm trong nền kinh tế là một sản phẩm dịch vụ.

1.2. Đặc điểm sản phẩm bảo hiểm

Ngành bảo hiểm là một ngành dịch vụ, do đó SPBH cũng có các đặc điểm chung của các sản phẩm dịch vụ, tuy nhiên, SPBH còn có các đặc điểm riêng. Chính vì thế, SPBH được xếp vào loại sản phẩm dịch vụ “đặc biệt”.

1.2.1. Đặc điểm chung của sản phẩm dịch vụ

Tính vô hình: Khi mua bảo hiểm, mặc dù khách hàng nhận được các yếu tố hữu hình đó là những tờ giấy trên đó có in biểu tượng của doanh nghiệp, in tên gọi của sản phẩm, in những nội dung thỏa thuận… Nhưng khách hàng không thể chỉ ra được màu sắc, kích thước, hình dáng hay mùi vị của sản phẩm. Nói cách khác, SPBH là sản phẩm “vô hình”, người mua không thể cảm nhận được SPBH thông qua các giác quan của mình. Tính vô hình của SPBH làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên khó khăn hơn. Khi mua sản phẩm bảo hiểm, người mua chỉ nhận được những lời hứa, lời cam kết về những đảm bảo vật chất trước các rủi ro.

Tính không thể tách rời và không thể cất trữ: SPBH không thể tách rời, tức là việc tạo ra sản phẩm dịch vụ bảo hiểm trùng với việc tiêu dùng sản phẩm đó (quá trình cung ứng và quá trình tiêu thụ là một thể thống nhất). Thêm vào đó, SPBH cũng không thể cất trữ được, có nghĩa là khả năng thực hiện dịch vụ bảo hiểm vào một thời điểm nào đó sẽ không thể cất vào kho dự trữ để sử dụng vào một thời điểm khác trong tương lai. Điều này hoàn toàn khác biệt với sản phẩm hữu hình.

Tính không đồng nhất: Dịch vụ bảo hiểm, cũng như các dịch vụ khác, chủ yếu được thực hiện bởi con người. Nhưng cho dù là người có kỹ năng đến đâu đi chăng nữa thì dịch vụ họ thực hiện không phải lúc nào cũng nhất quán. Ví dụ, các đại lý khi bán sản phẩm có thể quên các chi tiết, có thể chậm trễ hoặc mất kiên nhẫn… Nhìn chung chất lượng phục vụ của một cá nhân nào đó tại các thời điểm khác nhau, với các khách hàng khác nhau là khác nhau. Chất lượng phục vụ này phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe, các yếu tố xung quanh. Ngoài ra, giữa các cá nhân khác nhau, chất lượng phục vụ cũng khác nhau.

Tính không được bảo hộ bản quyền: Mặc dù trước khi đưa một sản phẩm nào đó ra thị trường, các DNBH thường phải đăng ký sản phẩm để nhận được sự phê chuẩn của cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên việc phê chuẩn này chỉ mang tính nghiệp vụ kỹ thuật chứ không mang tính bảo hộ bản quyền. Do đó, các DNBH cạnh tranh có thể bán một cách hợp pháp các SPBH là bản sao của các hợp đồng bảo hiểm của các doanh nghiệp khác.

1.2.2. Đặc điểm riêng của sản phẩm bảo hiểm

Đặc điểm riêng đầu tiên của sản phẩm bảo hiểm đó là: sản phẩm bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn và vừa mang tính không bồi hoàn:

Tính bồi hoàn: Trong bảo hiểm, tính bồi hoàn nghĩa là công ty bảo hiểm sẽ bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nguyên tắc bồi thường (Indemnity) là nguyên tắc cơ bản của luật bảo hiểm, theo đó, chính sách bảo hiểm sẽ không đem lại lợi ích có giá trị lớn hơn so với những tổn thất mà người tham gia bảo hiểm phải chịu. Điều này đảm bảo rằng người được bảo hiểm chỉ có quyền được nhận bồi thường đối với những tổn thất mà họ thực sự phải chịu.

Tính không bồi hoàn: Đối với tính không bồi hoàn, nếu trong thời gian bảo hiểm không có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì công ty bảo hiểm không phải trả tiền hay bồi thường bảo hiểm. Điều này có nghĩa là người tham gia bảo hiểm không nhận được bất kỳ khoản tiền nào từ công ty bảo hiểm nếu không có rủi ro nào xảy ra trong thời gian hợp đồng bảo hiểm.

Đặc điểm riêng thứ hai là sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “không mong đợi”: Một trong những đặc điểm riêng của SPBH là sản phẩm không mong đợi. Điều này thể hiện ở chỗ, đối với các sản phẩm mang tính bảo hiểm thuần tuý, mặc dù đã mua sản phẩm nhưng khách hàng đều không mong muốn rủi ro xảy ra để được DNBH bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Đặc tính này cũng làm cho việc giới thiệu, chào bán sản phẩm trở nên vô cùng khó khăn.

Đặc điểm riêng thứ ba: Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của “chu trình hạch toán đảo ngược”. Nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, giá cả sản phẩm được xác định trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh thì trong lĩnh vực bảo hiểm, phí bảo hiểm (giá cả của SPBH) được xác định dựa trên những số liệu ước tính về các chi phí có thể phát sinh trong tương lai như chi phí bồi thường (trả tiền bảo hiểm), chi phí hoa hồng, chi phí tái bảo hiểm…

Đặc điểm riêng thứ tư: Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “hiệu quả xê dịch”. Trong hoạt động kinh doanh, các DNBH có quyền thu phí của người tham gia bảo hiểm hình thành nên quỹ bảo hiểm; sau đó nếu có các sự kiện bảo hiểm xảy ra, DNBH mới phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường hay chi trả. Do vậy, với việc thu phí trước, nếu không có hoặc có ít rủi ro xảy ra, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn dự kiến. Ngược lại, nếu rủi ro xảy ra với tần suất hoặc với quy mô lớn hơn dự kiến, DNBH có thể thua lỗ. Điều này có nghĩa là nếu như trong các lĩnh vực kinh doanh khác, hiệu quả kinh doanh có thể xác định được khá chính xác ngay tại thời điểm sản phẩm được tiêu thụ, thì trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, hiệu quả kinh doanh khó có thể xác định được ngay tại thời điểm sản phẩm được bán.

1.3. Phân loại các sản phẩm bảo hiểm tại Việt Nam

Pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 7 LKDBH 2022 các loại hình bảo hiểm bao gồm: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm phi nhân thọ. Cùng với các loại hình bảo hiểm sẽ có các loại sản phẩm bảo hiểm khác nhau:

1.3.1. Sản phẩm bảo hiểm nhân thọ

Theo khoản 13 điều 4 LKDBH 2022, BHNT được định nghĩa như sau: “BHNT là loại hình bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”. Thực chất đây là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm 1 khoản tiền khi hết thời hạn bảo hiểm hoặc khi người bảo hiểm bị chết hoặc bị thương tật toàn bộ. Nói cách khác, BHNT là việc bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối tượng tham gia bảo hiểm nhân thọ rất rộng, bao gồm nhiều người ở các lứa tuổi khác nhau.

Theo điều 3 NĐ 46/2023 NĐ -CP, các loại sản phẩm bảo hiểm nhân thọ bao gồm :

Bảo hiểm trọn đời: bảo hiểm trọn đời là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp người được bảo hiểm tử vong và bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. Loại hình này đem lại sự bảo đảm trọn đời cho người được bảo hiểm trên phí bảo hiểm định kỳ cố định.

Bảo hiểm sinh kỳ: bảo hiểm sinh kỳ chỉ trả quyền lợi bảo hiểm vào ngày đáo hạn nếu người được bảo hiểm còn sống.

Bảo hiểm tử kỳ: là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp người được bảo hiểm tử vong trong một thời hạn nhất định, theo đó công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được thực hiện trong hợp đồng.

Bảo hiểm trả tiền định kỳ: là loại hình bảo hiểm nhân thọ cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định., Sau thời hạn đó công ty bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Có hai thời kỳ: thời kỳ tích lũy (chi phí bảo hiểm được phân bổ vào tài khoản) và thời kỳ niên kim (khi công ty bảo hiểm chi trả quyền lợi bảo hiểm).

Bảo hiểm hỗn hợp: bảo hiểm hỗn hợp là loại hình bảo hiểm nhân thọ có quyền lợi bảo hiểm được chi trả một lần vào cuối thời hạn hợp đồng (ngày đáo hạn) hoặc khi người được bảo hiểm tử vong. Thời gian đáo hạn điển hình thường là 10, 15, 20 năm hoặc đến một giới hạn độ tuổi nhất định.

1.3.2. Sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ

Theo điều 14 khoản  4 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 2022 bảo hiểm phi nhân thọ được hiểu là “loại hình bảo hiểm cho những thiệt hại về tài sản và những tổn thất khác hoặc trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba”. Tức bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. Căn cứ vào Điều 4 NĐ 46/2023 NĐ-CP, các loại sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm : (i) Bảo hiểm tài sản; (ii) Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển; (iii) Bảo hiểm hàng không; (iv) Bảo hiểm xe cơ giới; (v) Bảo hiểm cháy, nổ; (vi) Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu; (vii) Bảo hiểm trách nhiệm; (viii) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; (ix) Bảo hiểm nông nghiệp; (x) Bảo hiểm bảo lãnh; (xi) Bảo hiểm thiệt hại khác.

1.3.3. Sản phẩm bảo hiểm sức khoẻ

Căn cứ theo khoản 15 điều 4 Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 2022, bảo hiểm sức khỏe được định nghĩa là: “loại hình bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật, tai nạn, ốm đau bệnh tật hoặc chăm sóc sức khỏe.” Tức Bảo hiểm sức khỏe là loại hình bảo hiểm tự nguyện, giúp chỉ trả một phần hay toàn bộ chi phí cho chị các cơ sở y tế khi người được bảo hiểm bị đau ốm thương tật tai nạn chăm sóc và phục hồi sức khỏe.

Thời hạn hợp đồng của bảo hiểm sức khỏe khá ngắn cỡ khoảng trong một năm. Khi hợp đồng hết thời hạn đồng nghĩa các quyền lợi bảo hiểm cũng chấm dứt. Người tham gia cần tiếp tục đăng ký thì sẽ hạn chế, duy trì các quyền lợi bảo hiểm. Theo điều 5 NĐ 46 NĐ -CP thì bảo hiểm sức khỏe bao gồm các sản phẩm bảo hiểm sau: (i) Bảo hiểm sức khoẻ ,thân thể; (ii) Bảo hiểm chi phí y tế.

Ngoài các hình thức bảo hiểm trên thì pháp luật Việt Nam còn quy định về bảo hiểm bắt buộc được quy định tại Điều 8 LKDBH 2022.  Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Loại bảo hiểm này chỉ áp dụng với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng , môi trường và an toàn xã hội. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm: (i) Bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; (ii) Bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc; (iii) Bảo hiểm bắt buộc trong hoạt động đầu tư xây dựng; (iv) Các loại bảo hiểm bắt buộc quy định tại luật khác.

2. Quy định của một số quốc gia về sản phẩm bảo hiểm

2.1. Quy định của Hoa Kỳ về sản phẩm bảo hiểm

Pháp luật Hoa Kỳ về sản phẩm bảo hiểm là một hệ thống phức tạp và không thống nhất, do mỗi bang có thẩm quyền quản lý và giám sát hoạt động bảo hiểm trên địa bàn của mình. Có hơn 50 cơ quan quản lý bảo hiểm ở Hoa Kỳ, mỗi cơ quan có những quy định và tiêu chuẩn riêng về cấp phép, đăng ký, kiểm tra, giám sát, điều chỉnh, xử lý khiếu nại, v.v. của các công ty bảo hiểm và các sản phẩm bảo hiểm. Tuy nhiên, có một số nguyên tắc chung được áp dụng cho các sản phẩm bảo hiểm ở Hoa Kỳ, bao gồm:

Sản phẩm bảo hiểm phải được phê duyệt bởi cơ quan quản lý bảo hiểm của bang trước khi được bán ra thị trường. Các sản phẩm bảo hiểm phải tuân thủ các quy định về nội dung, điều khoản, điều kiện, giới hạn, loại trừ, mức phí, mức bồi thường, v.v. của từng bang.

Sản phẩm bảo hiểm phải được bán bởi các đại lý hoặc công ty bảo hiểm được cấp phép và đăng ký tại bang mà họ hoạt động. Các đại lý hoặc công ty bảo hiểm phải tuân thủ các quy định về đạo đức, trung thực, minh bạch, chuyên nghiệp, v.v. trong việc cung cấp thông tin, tư vấn, giải thích, khuyến nghị, v.v. cho khách hàng về các sản phẩm bảo hiểm.

Sản phẩm bảo hiểm phải được cung cấp một cách công bằng và không phân biệt đối xử dựa trên tuổi, giới tính, sắc tộc, tôn giáo, quốc tịch, tình trạng sức khỏe, v.v. của khách hàng. Các công ty bảo hiểm không được sử dụng các tiêu chí không hợp lý hoặc sai lệch để định giá, phân loại, từ chối, hủy bỏ, giảm bớt, hoặc hạn chế các sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng.

Sản phẩm bảo hiểm phải được thực hiện một cách trung thực và nhanh chóng khi có yêu cầu bồi thường từ khách hàng. Các công ty bảo hiểm phải xử lý các yêu cầu bồi thường một cách kịp thời, hợp lý, và công khai, không được chậm trễ, từ chối, hoặc giảm bớt các khoản bồi thường không có căn cứ pháp lý.[1]

Những quy định này nhằm đảm bảo rằng các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp cho người tiêu dùng là an toàn, đáng tin cậy và đáp ứng được nhu cầu bảo hiểm của họ

Đối với các quy định về sản phẩm các loại sản phẩm bảo hiểm, các tiểu bang của Hoa Kỳ có những quy định khác nhau đối với các cá nhân và doanh nghiệp tham gia vào một số hoạt động nhất định phải mua bảo hiểm liên quan đến hoạt động của họ. Chẳng hạn như với sản phẩm bảo hiểm bắt buộc: chủ sở hữu xe cơ giới được yêu cầu mua bảo hiểm ô tô ở mọi tiểu bang ngoại trừ New Hampshire và Virginia, và Florida là tiểu bang duy nhất không yêu cầu chủ sở hữu xe cơ giới mua Bảo hiểm trách nhiệm thương tích cơ thể. Tùy thuộc vào một số điều kiện nhất định, người sử dụng lao động được yêu cầu mang theo bảo hiểm bồi thường cho người lao động ở mọi tiểu bang. Chính phủ liên bang cũng yêu cầu một số hình thức bảo hiểm bắt buộc. Đạo luật Bảo hiểm Rủi ro Khủng bố (“TRIA”) và Đạo luật Ủy quyền lại Chương trình Bảo hiểm Rủi ro Khủng bố năm 2015 yêu cầu các công ty bảo hiểm tài sản thương mại và bảo hiểm tai nạn phải cung cấp bảo hiểm khủng bố theo chính sách của họ. TRIA đã được ủy quyền lại vào tháng 12 năm 2019 và sẽ vẫn có hiệu lực đến tháng 12 năm 2027. Đặc biệt, Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Giá cả phải chăng năm 2010 bắt buộc mọi cá nhân phải mua bảo hiểm y tế nếu họ không được bảo hiểm bởi chương trình sức khỏe hoặc chính phủ được tài trợ. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 2019, Tòa phúc thẩm vòng thứ năm đã kết luận rằng nhiệm vụ cá nhân đối với bảo hiểm y tế là vi hiến. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã đảo ngược Vòng thứ Năm và duy trì toàn bộ Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng. California v. Texas, 141 S. Ct. 2104 (2021). Trong khi hình phạt thuế liên bang liên quan đến nhiệm vụ cá nhân đã được bãi bỏ, một số tiểu bang có hình phạt bắt buộc bảo hiểm cá nhân: California, Massachusetts, New Jersey, Rhode Island và Quận Columbia có các hình phạt có hiệu lực vào năm 2022.

2.2. Quy định của EU về sản phẩm bảo hiểm

Tại các nước EU, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có thể kinh doanh dưới những hình thức pháp lý nhất định và phải có tư cách pháp nhân. Hình thức doanh nghiệp bảo hiểm ở các nước EU khá đa dạng về cơ cấu sở hữu và hình thức pháp lý. Về cơ bản, loại hình phổ biến nhất là công ty cổ phần bảo hiểm, tiếp đó là các Hội (hay công ty) bảo hiểm tương hỗ và các chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Tùy theo quy định của pháp luật mỗi nước, hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn có thể tiến hành thông qua công ty bảo hiêm Nhà nước (Y, Bô Đào Nha), Lloyd’s (Anh), hội hợp tác (Bi), các hội tiết kiệm (Thụy Điển)… Theo quy định của các luật về doanh nghiệp bảo hiểm, một công ty không được phép kinh doanh đông thời cả bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.

Tại tất cả các nước EU, một tổ chức nhất thiết phải có giấy phép mới được kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm. Giấy phép này có giá trị trong toàn bộ EU và được cấp cho từng loại nghiệp vụ bảo hiêm cụ thể (bao gồm cả nội dung kinh doanh bảo hiêm và kinh doanh tái bảo hiểm). Thông thường, giấy phép kình doanh bảo hiểm được cấp vô thời hạn. Việc cấp giấy giấy phép kinh doanh bảo hiểm ở các nước EU chỉ căn cứ vào các yêu cầu về tài chính, pháp lý, kế toán, kỹ thuật, nhân sự theo nguyên tắc thận trọng mà không phụ thuộc vào nhu cầu của nền kinh tế. Thời hạn xét cấp giấy phép được quy định là 6 tháng kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ. Trong các điều kiện cấp giấy phép, điều kiện về tài chính được đặt lên hàng đầu. Tại tất cả các nước EU, doanh nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về vốn pháp định, tuy thuộc vào loại nghiệp vụ. Tuy nhiên, số vốn pháp định nói trên sẽ được tăng lên do các yếu tố lạm phát và sự phát triển của thị trường. Ngoài ra, số vốn cổ phần đã đóng không được thấp hơn vốn pháp định và không thấp hơn 20 – 50% số vốn điều lệ của công ty. Các nước cũng quy định mức yêu cầu ký quỹ tương đương 25% vốn pháp định.

Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu về biên khả năng thanh toán và trích lập đủ các khoản sự phòng nghiệp vụ cho toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, các nước EU đã từ bỏ việc áp dụng chế độ tái bảo hiểm bắt buộc cho một tổ chức do Chính phủ chỉ định. Trừ các loại hình bảo hiểm bắt buộc, các bên tham gia bảo hiểm có toàn quyền thoả thuận các điều kiện của hợp đồng bảo hiểm, cũng như ấn định mức phí bảo hiểm thích hợp.

Hoạt động đầu tứ của các doanh nghiệp bảo hiểm được EU kiểm soát khá chặt chẽ.Pháp luật các nước đều có sự phân định các loại tài sản mà một doanh nghiệp bảo hiểm có thể dùng để đầu tư, bao gồm: các quỹ dự phòng nghiệp vụ để chi trả các khiếu nại cho người được bảo hiểm và các tài sản dùng để thanh toán cho các chủ nợ khác. Do có các tính chất khác nhau, mỗi loại tài sản phải tuân theo các quy định riêng về đầu tư. Nguyên tắc của hoạt động đầu tư mà các doanh nghiệp đều phải tuân thủ là “đa dạng hóa, phân tán rủi ro và đảm bảo tính thanh khoản cao” nhằm đáp ứng các yêu câu về độ an toàn và khả năng sinh lời. Mặc dủ có mức độ tự đo hóá cao, các nước EU vẫn chú trọng yêu câu “nội địa hóá tài sản đầu tư”, theo đó, các tài sản tạo thành biên khả năng thanh toán phải được cất giữ lại một nước EU, nơi có hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Theo định kỳ, doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo cho cơ quan quản lý bảo hiểm về cơ cấu tài sản và biến động trong danh mục đầu tư của mình.

Do những đặc thù riêng, hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm được kiểm soát chặt chẽ hơn qua việc quần lý các thoả thuận tái bảo hiểm của các công ty nhượng tái và hoạt động tái bảo hiêm của công ty bảo hiểm gốc trong nước. Các nước đều áp dụng những biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng các công ty nhận tái bảo hiểm là các công ty có uy tín trên thị trường và có năng lực tài chính tôt, đảm bảo đáp ứng các trách nhiệm phát sinh theo hợp đồng tái bảo hiểm.

Tất cả các nước EU đều duy trì ít nhất một loại bảo hiểm bắt buộc. Đó là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Ngoài ra, ở một số nước, bảo hiểm trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người làm công, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cũng là bắt buộc. Thông thường, phí bảo hiểm bắt buộc chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý bảo hiểm.

2.3. Quy định của Singapore về sản phẩm bảo hiểm

Singapore được công nhận là một trung tâm cấp vùng cũng như đầu tàu về bảo hiểm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương với một thị trường bảo hiểm cực kỳ cạnh tranh.

Dù là một quốc gia theo cả hệ thống luật thành văn và thông luật, hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm được điều chỉnh chủ yếu bởi Đạo luật Bảo hiểm, được ban hành lần đầu từ năm 1966 và trải qua 39 lần sửa đổi bổ sung.

Ngoài Đạo luật Bảo hiểm, pháp luật Singapore còn có các luật khác quy định các loại hình bảo hiểm cụ thể như bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm xe cơ giới. Ngoài ra, theo Đạo luật Áp dụng Pháp luật Anh, các quy định trong các đạo luật của Anh sau đây cũng có hiệu lực tại Singapore: (i) Đạo luật Hợp đồng Bảo hiểm 1867; (ii) Đạo luật về Bên thứ ba (Quyền yêu cầu Công ty bảo hiểm) 1930. (iii) Đạo luật Bảo hiểm Hàng hải 1906; (iv) Đạo luật Bảo hiểm được hướng dẫn chi tiết bởi các văn bản dưới luật, các thông báo, chỉ thị, hướng dẫn hoặc quy tắc do cơ quan có thẩm quyền liên quan ban hành, tất cả đều có mang tính pháp quy ngoại trừ các hướng dẫn và bộ quy tắc.

Cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm tại Singapore là Cơ quan Quản lý Tiền tệ Singapore (Monetary Authority of Singapore – MAS).

Bên cạnh MAS, các cơ quan có thẩm quyền khác đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý các công ty bảo hiểm và trung gian bảo hiểm bao gồm Hiệp hội Bảo hiểm Nhân thọ (LIA) và Hiệp hội Bảo hiểm Phi nhân thọ (GIA). Các hiệp hội này ban hành các quy tắc ứng xử nội bộ và các hướng dẫn để điều chỉnh hoạt động của các thành viên (là các công ty bảo hiểm).[2]

3. Thực trạng thị trường bảo hiểm tại Việt Nam

3.1. Những kết quả đạt được

Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây đã rất sôi động, đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các khách hàng.

Ở Việt Nam, thị trường bảo hiểm nhân thọ đến nay đã có 19 DN, cung cấp hơn 500 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe. Quyền lợi bảo hiểm cũng được mở rộng hơn, ngoài các quyền lợi bảo vệ còn có các quyền lợi về đầu tư, tích lũy, đảm bảo cho người tham gia bảo hiểm yên tâm hưởng thụ cuộc sống và dự phòng các kế hoạch tài chính cho tương lai. Trong giai đoạn 2018-2022, thị trường bảo hiểm nhân thọ tăng trưởng ở mức khá cao, trung bình khoảng 21%/năm. Tính đến 31/12/2022, tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 178,269 tỷ đồng, tăng 11.8% so với năm 2021; tổng số tiền chi trả quyền lợi bảo hiểm là 42,561 tỷ đồng, tăng 31.2%; Các DN bảo hiểm nhân thọ là kênh huy động vốn hữu hiệu của nền kinh tế với tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế của các DN năm 2022 là 616,791 tỷ đồng, tăng 18.5% so với năm 2021.

3.2. Hạn chế

Bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Các hiện tượng bị dư luận phản ứng thời gian qua như: Nhân viên ngân hàng ép buộc khách hàng phải mua bảo hiểm mới cho vay vốn, đại lý bảo hiểm và nhân viên ngân hàng giới thiệu, tư vấn bảo hiểm không rõ ràng, làm cho người tham gia bảo hiểm nhầm lẫn giữa sản phẩm bảo hiểm với sản phẩm tiết kiệm của ngân hàng; chất lượng dịch vụ khách hàng sau bán hàng còn chưa tốt, tình trạng trục lợi bảo hiểm vẫn còn diễn ra. Chính sự bị động trong mua BH nên nhiều người tiêu dùng chưa thực sự hiểu rõ về các chính sách BH. Theo kết quả khảo sát nhận thức về sản phẩm BH của người tiêu dùng được Vietnam Report thực hiện trong tháng 5 – 6/2023, có đến 55,8% người trả lời chưa thật sự hiểu về sản phẩm BH nhân thọ mà mình đang tham gia. Trong đó, sản phẩm liên kết đầu tư chính là loại sản phẩm có đến 97,9% khách hàng đang tham gia nhưng không hiểu rõ về loại sản phẩm này, tiếp đến là BH hỗn hợp (83,3%) và BH trả tiền định kỳ (80,2%).[3]

4. Thực tiễn pháp luật Việt Nam về sản phẩm bảo hiểm và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

4.1. Thực tiễn pháp luật về sản phẩm bảo hiểm

Pháp luật về sản phẩm bảo hiểm ở Việt Nam đã được hoàn thiện qua nhiều năm, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ người tiêu dùng một cách đầy đủ và hữu hiệu hơn trong xã hội hiện đại. Các quy định pháp luật về trách nhiệm sản phẩm đã ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu này. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022 được ban hành với các quy định mới, phù hợp hơn trong thời điểm hiện tại:

Chẳng hạn như về bảo hiểm bắt buộc, luật mới đã bãi bỏ một số bảo hiểm bắt buộc như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật.

Cùng với đó, Luật mới quy định cho phép doanh nghiệp bảo hiểm chủ động trong việc thiết kế, xây dựng sản phẩm bảo hiểm và chỉ phải đăng ký với Bộ Tài chính phương pháp, cơ sở tính phí bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cơ giới (trừ bảo hiểm bắt buộc); bổ sung quy định về hoạt động thuê ngoài. Các quy định mới trong Luật kinh doanh bảo hiểm đã được đưa ra để ngăn ngừa trục lợi bảo hiểm.

Tuy nhiên, đi đôi với việc ban hành mới Luật kinh doanh bảo hiểm các văn bản hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm với các vấn đề khác nhau vẫn còn thiếu, khó khăn trong việc áp dụng vào từng trường hợp cụ thể.

Tham khảo thêm Điều kiện, thủ tục rút bảo hiểm xã hội một lần

4.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sản phẩm bảo hiểm

Thứ nhất, Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bảo hiểm bao gồm các vấn đề đã được giao trong Luật với các nội dung sau đây: (i) Hướng dẫn chi tiết về vốn trên cơ sở rủi ro, quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ, các biện pháp can thiệp đối với doanh nghiệp bảo hiểm; (ii) Hướng dẫn việc thu thập, quản lý cơ sở dữ liệu chung, đồng bộ các thông tin về thị trường bảo hiểm nhằm phục vụ mục tiêu quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm; (iii) Rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về triển khai các sản phẩm bảo hiểm có tính đặc thù, sản phẩm bảo hiểm có tác động an sinh xã hội, thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế xã hội như bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm hưu trí tự nguyện, bảo hiểm liên kết đầu tư, bảo hiểm thiên tai, liên kết bảo hiểm y tế thương mại và bảo hiểm y tế xã hội, v.v…; (iv) Hướng dẫn chi tiết về các loại chứng chỉ bảo hiểm, chứng chỉ đại lý bảo hiểm, chứng chỉ môi giới bảo hiểm, chứng chỉ phụ trợ bảo hiểm, đảm bảo tuân thủ Luật Kinh doanh bảo hiểm, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn của thị trường bảo hiểm Việt Nam; (v) Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp bảo hiểm.[4]

Thứ hai, Luật Kinh doanh bảo hiểm cần được sửa đổi, bổ sung thêm các quy định về tên gọi sản phẩm BHNT, BHPNT, BHSK nhằm hạn chế tình trạng có quá nhiều các tên gọi khác nhau về đối với cùng một loại sản phẩm, thậm chí những sản phẩm đó là của cùng một DNBH. để đảm bảo tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh, pháp luật cần xây dựng các nguyên tắc đặt tên theo hướng: Tên gọi phải thể hiện rõ loại hình sản phẩm bảo hiểm để bên mua bảo hiểm dễ có khả năng nhận biết và lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình. Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm của DNBH khi xây dựng một sản phẩm bảo hiểm mới thì cần giải trình rõ với Bộ Tài chính về những điểm khác biệt quan trọng của sản phẩm mới so với những sản phẩm đã phân phối trước đây để đảm bảo không cung cấp hai sản phẩm bảo hiểm tương đối giống nhau nhưng tên gọi lại khác nhau làm cho khách hàng có thể nhầm lẫn.

Thứ ba, Cải thiện quy trình phê duyệt và giám sát sản phẩm: Có thể áp dụng các quy trình phê duyệt sản phẩm nhanh chóng và hiệu quả từ EU và Hoa Kỳ, đồng thời tăng cường giám sát sau phê duyệt để đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ người tiêu dùng.

Thứ tư, Phát triển thị trường thông qua đổi mới sản phẩm: Khuyến khích sự đổi mới và phát triển sản phẩm bảo hiểm mới, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến công nghệ và dịch vụ số, tương tự như xu hướng hiện nay ở Hoa Kỳ và EU.

Thứ năm, Mở cửa thị trường và hợp tác quốc tế: Tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài và hợp tác quốc tế, nhằm tận dụng kinh nghiệm và kiến thức từ các thị trường phát triển.

Như vậy, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm nói riêng và các lĩnh vực kinh doanh khác nói chung đều đang được từng bước hoàn thiện để đáp ứng được nhu cầu và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên Luật kinh doanh bảo hiểm hiện hành vẫn chưa thể theo kịp những thay đổi của thị trường hội nhập đồng thời chưa khắc phục hết những tồn tại cũ. Chính vì vậy việc sửa đổi, bổ sung luật kinh doanh bảo hiểm là vấn đề cần thiết và cấp thiết được đặt ra. Nhà nước cần chú trọng hơn nữa về việc thắt chặt các quy định, điều khoản của luật kinh doanh bảo hiểm đề xuất những phương án, tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp bảo hiểm cũng như người sử dụng bảo hiểm để ngành bảo hiểm ngày càng phát triển và ổn định bền vững.

Bài viết liên quan