Bảo vệ quyền con người trong kiểm sát tạm giam, tạm giữ Chương 1 Phần 1

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIAM TẠM GIỮ 

1.1.1. Khái niệm quyền con người

Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về QCN đã được công bố, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của QCN. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về QCN phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về QCN (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người [8, tr.11].

Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác cũng thường được trích dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên. Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về QCN do một số cơ quan nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, QCN thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [8, tr.37-38].

Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, QCN có các tính chất cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau, cụ thể như sau:

– Tính phổ biến (universal)

QCN là một giá trị chung của con người. Tính phổ biến của QCN gắn liền với những quyền cơ bản nhất, phổ biến nhất của con người, thể hiện ở chỗ QCN là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, tất cả các giai đoạn phát triển của lịch sử, không bị giới hạn bởi phạm vi, đối tượng, không gian, thời gian; không bị chi phối bởi bản chất tự nhiên hay bản chất xã hội của con người; không bị giới hạn bởi thiết chế chính trị xã hội nào không phụ thuộc vào giai cấp, địa vị xã hội, giới tính, trình độ phát triển của xã hội hay trình độ nhận thức của con người,… Bản chất của sự bình đẳng về QCN không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của QCN. Ở đây, mọi thành viên của nhân loại đều có được công nhận có các QCN, song mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân từng người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,… mà người đó đang sống [8, tr.41-42].

– Tính không thể tước bỏ (inalienable)

Tính không thể tước bỏ của QCN thể hiện ở chỗ các QCN không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tuỳ tiện” nói đến giới hạn của vấn đề, nó cho thấy không phải lúc nào QCN cũng “không thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước quyền sống [8, tr.42].

– Tính không thể phân chia (indivisible)

Tính không thể phân chia của QCN bắt nguồn từ nhận thức rằng các QCN đều có tầm quan trọng như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ QCN nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm ý rằng mọi QCN đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ giống hệt nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần và có thể ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những yêu cầu thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về giá trị của các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với những người bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế; còn trong bối cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương thực, thực phẩm. Ở góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thực hiện quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng quyền của tất cả các nhóm khác. Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền đó trong thực tế đang bị đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác [8, tr.42-43].

– Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent)

Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của QCN thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các QCN, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử, ứng cử (các quyền chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng… vì nếu không, các quyền bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ. Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá đều gắn liền với sự phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo đảm các quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu quả trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội – yếu tố nền tảng để thúc đẩy các điều kiện sống về kinh tế, xã hội, văn hoá của mọi người dân [8, tr.43].

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam

1.1.2.1. Khái niệm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam

– Khái quát chung về biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam

Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, do cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người bị tình nghi thực hiện tội phạm, người đã bị kết án nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án [10]. Để bảo đảm giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng, kịp thời, đúng thời hạn, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các biện pháp BPNC gồm: “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn độ); tạm giữ; tạm giam; bảo lĩnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh” [15]. Đây là nhóm biện pháp cưỡng chế tố tụng mang tính nghiêm khắc nhất, đặc biệt là hai BPNC tạm giữ và tạm giam.

Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã [15]. Thời hạn tạm giữ được quy định không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ còn có thể gia hạn tạm giữ 02 lần, mỗi lần không quá 03 ngày, những trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền phê chuẩn trong thời hạn 12 giờ kể từ khi chuyển hồ sơ đề nghị gia hạn.

Tạm giam là BPNC dùng để cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thuận lợi [13]. Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do thân thể của công dân. Do đó, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam cũng được quy định một cách chi tiết, cụ thể hơn, gồm “bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: Đã bị áp dụng BPNC khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”. Bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm cũng có thể bị tạm giam nếu họ “tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã”. Ngoài ra, trong trường hợp “bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng BPNC khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”  [15].

Về thời hạn tạm giam: “Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng”  [15].

Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam:

Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người bị buộc tội bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ hoặc biện pháp ngăn chặn tạm giam. Người bị tạm giữ là người trước đó đã bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ [15]. Còn người bị tạm giam là người đã có quyết định hoặc lệnh tạm giam và đưa đi thi hành theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 thì khái niệm “người bị tạm giữ” được hiểu là: “người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của BLTTHS”. Còn “người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của BLTTHS, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ” [16].

Khái niệm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam:

Đối với pháp luật Việt Nam, QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được quy định cụ thể trong các văn bản sau:

Thứ nhất, trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1 Điều 31 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo đó, người bị buộc tội phải được chứng minh là có tội theo trình tự luật định; họ chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật. Bản án sơ thẩm của tòa án không phải có hiệu lực ngay sau khi được tuyên mà chỉ khi không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, người đang bị tạm giữ, tạm giam (trừ trường hợp người bị kết án tử hình đang chờ thi hành án) chưa bị coi là có tội mà mới chỉ nghi ngờ phạm tội. Do họ chưa phải là người có tội, các biện pháp áp dụng với họ chỉ mang tính “tạm” (tạm giữ, tạm giam), cho nên nếu không chứng minh được người bị tạm giữ, tạm giam có tội thì cơ quan tố tụng có thẩm quyền phải trả tự do cho họ.

Thứ hai, trong Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được quy định tại Điều 9 bao gồm: “Được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm; được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình, nội quy của cơ sở giam giữ; Được thực hiện quyền bầu cử theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân theo quy định của Luật trưng cầu ý dân; Được bảo đảm chế độ ăn, ở, mặc, đồ dùng sinh hoạt cá nhân, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo, tài liệu; Được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự; Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý; Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự; Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam; Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật; Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật; Được hưởng các quyền khác của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp các quyền đó không thể thực hiện được do họ đang bị tạm giữ, tạm giam”. Ngoài ra, tại các điều 22, 34, 37 còn quy định chi tiết về chế độ gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, tạm giam, đặc biệt là một số đối tượng đặc biệt (người dưới 18 tuổi, người đang chờ thi hành án tử hình).

Như vậy, mặc dù bị hạn chế một số quyền nhưng những người bị tạm giữ, tạm giam vẫn được hưởng các QCN nói chung và một số quyền mang tính đặc thù như: bất khả xâm phạm về thân thể; không bị tra tấn, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác nhằm xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; các quyền về chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt,… vẫn được ghi nhận và bảo đảm thực hiện trong Hiến pháp, BLTTHS, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và một số văn bản pháp luật khác.

Từ những phân tích trên đây cho thấy, quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam là tập hợp các quyền cơ bản thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị như: quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền được suy đoán vô tội; quyền bào chữa,…  nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, bảo đảm các chế độ dành cho người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện một cách đầy đủ, đúng quy định của pháp luật.

– Đặc điểm quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam

Quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam là một bộ phận trong chế định QCN nói chung, do đó cũng có những đặc điểm chung của QCN gồm: tính phổ biến, tính không thể tước bỏ, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

+ Thứ nhất, tính phổ biến: Khi một người bị áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam thì trong thời gian tạm giữ, tạm giam, họ đều có những quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt về quốc tịch, dân tộc, xuất thân gia đình, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế, trình độ học vấn, địa vị xã hội,…. Mỗi người bị tạm giữ, tạm giam đều được bảo đảm những QCN cơ bản mà pháp luật quy định xuyên suốt quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam, ở bất kỳ cơ sở giam giữ nào trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và được giám sát thực hiện thông qua VKS, Mặt trận Tổ quốc,…

+ Thứ hai, tính không thể tước bỏ, phân chia. QCN của người bị tạm giữ, tạm giam ở Việt Nam hiện nay được xây dựng và hoàn thiện sau một quá trình dài nghiên cứu và phát triển trên sở kế thừa, so sánh, đối chiếu với hệ thống pháp luật về QCN trên thế giới, cũng như đánh giá sự phù hợp với hoàn cảnh kinh tế – xã hội nước ta và trình độ nhận thức của quần chúng nhân dân. Tất cả các QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được pháp luật quy định đều có tầm quan trọng, sự cần thiết như nhau, được pháp luật bảo đảm thực hiện đối với tất cả những người bị tạm giữ, tạm giam và không thể bị tước đoạt, phân chia hay hạn chế một cách tùy tiện, ngoại trừ trong một số trường hợp, bối cảnh đặc biệt nhất định mà pháp luật có quy định.

– Thứ ba, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Những QCN của người bị tạm giữ, tạm giam đều có sự liên hệ chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau, quyền này là tiền đề cũng như ảnh hưởng đến việc bảo đảm và thực hiện của quyền kia, không tách rời nhau hoàn toàn. Đơn cử, quyền được bảo vệ an toàn tính mạng, thân thể, tài sản, tôn trọng danh dự, nhân phẩm đòi hỏi các chế độ ăn, mặc, sinh hoạt, chăm sóc y tế,… của người bị tạm giữ, tạm giam phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Hay như việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam có  chính xác, khách quan hay không phụ thuộc vào việc người bị tạm giữ, tạm giam có được thông báo, phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình; được tiếp cận người bào chữa, trợ giúp pháp lý; được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật,… hay không. Khi một trong các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam bị xâm phạm sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thực hiện các quyền khác của họ.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

1.1.3.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Bảo đảm QCN được hiểu là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý để cá nhân, tổ chức được thực hiện các quyền, lợi ích chính đáng được pháp luật ghi nhận của họ [17]. Bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam là những bảo đảm về pháp lý, xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ những cá nhân khi bị áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam nhằm ngăn ngừa những xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; các quyền tự do cơ bản của họ trong TTHS cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp khác đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo vệ. VKS là cơ quan có vai trò bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ QCN, trong đó có QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Thông qua công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, VKS bảo đảm việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam phải đúng căn cứ, trình tự, thủ tục; bảo đảm chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh. Như vậy, việc bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKS bao gồm 02 nội dung: bảo đảm QCN trong kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam (phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ việc tạm giữ, tạm giam theo quy định tại BLTTHS năm 2015) và bảo đảm QCN trong kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam (kiểm sát công tác quản lý và thực hiện chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam theo Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015).

Trong thực tiễn, việc hiểu và vận dụng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, căn cứ áp dụng các BPNC tạm giữ, tạm giam có lúc, có nơi còn chưa thống nhất, đồng bộ dẫn đến nhiều trường hợp tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hành chính hoặc tạm giữ, tạm giam không đúng căn cứ khiến các QCN của người bị tạm giữ, tạm giam bị xâm phạm nghiêm trọng. Ngược lại, cũng có trường hợp cần ngăn chặn bị can, bị cáo, người phải thi hành án bỏ trốn hoặc phạm tội mới nhưng lại không áp dụng biện pháp tạm giam, sau đó những người này không có mặt để làm việc theo nội dung triệu tập, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng. Để khắc phục tình trạng này đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa trách nhiệm của VKS trong công tác kiểm sát việc áp dụng các BPNC tạm giữ, tạm giam, bảo đảm việc tạm giữ, tạm giam đúng căn cứ, trình tự, thủ tục mà BLTTHS đã quy định, góp phần ngăn ngừa tội phạm, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thực hiện khách quan, thuận lợi.

Hoạt động kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam được BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan quy định rất chặt chẽ, chi tiết về trình tự, thủ tục, thẩm quyền nhằm bảo đảm QCN và các quyền cơ bản của công dân được tôn trọng và bảo vệ, đặc biệt, không để xảy ra bất kỳ trường hợp tạm giữ, tạm giam nào trái pháp luật. Do đó, có thể hiểu: Kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam là hoạt động của VKSND trong việc bảo đảm tính hợp pháp của việc áp dụng biện pháp BPNC tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội [10].

Cùng với hoạt động kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam thì bảo đảm chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam được thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật cũng là nhiệm vụ rất quan trọng của VKS trong việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam. Bản thân những người bị tạm giữ, tạm giam vẫn được pháp luật ghi nhận và bảo vệ những QCN cơ bản. Thông qua công tác kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam, VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm việc quản lý và thực hiện chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam được chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm và các quyền hợp pháp khác của họ được tôn trọng. Như vậy, kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam là hoạt động của VKSND trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để kiểm sát hoạt động của cơ quan, người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm việc thi hành tạm giữ, tạm giam được thống nhất và chính xác.

Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm “bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam” là việc Viện kiểm sát bảo đảm tính có căn cứ của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, tính hợp pháp của chế độ giam giữ để không xảy ra tình trạng người bị tạm giữ, tạm giam bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; các quyền tự do cơ bản cá nhân và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ được ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật được bảo đảm thực hiện trong thực tế.

1.1.3.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam

Từ khái niệm nêu trên có thể rút ra những đặc điểm của bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam như sau:

– Thứ nhất, bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam dựa trên các chuẩn mực quốc tế về QCN và được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam. Kế thừa những tư tưởng về QCN nói chung và QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được thể hiện trong Tuyên ngôn thế giới về QCN năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1996 và một số văn kiện pháp lý quốc tế khác, Việt Nam đã và đang nội luật hóa nhiều quy định tiến bộ của các văn bản pháp lý quốc tế này vào trong hệ thống pháp luật của nước ta như Hiến pháp, BLTTHS,… Việc nội luật hóa các quy định này nhằm giúp hệ thống pháp luật của nước ta nắm bắt kịp thời những nhận thức đổi mới, tiến bộ trên thế giới trong bảo đảm QCN, từ đó dần hoàn thiện cơ chế pháp lý về QCN nói chung, QCN của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Thứ hai, bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam được thực hiện thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam. Hoạt động này mang tính chất xuyên suốt trong quá trình tố tụng hình sự, kể từ khi phát sinh việc tạm giữ, tạm giam đến khi kết thúc việc giam, giữ. Đối với chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam, VKS thực hiện quyền phê chuẩn, yêu cầu, kiến nghị, hoặc hủy bỏ đối với các quyết định của cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật. Còn với chức năng kiểm sát chế độ thi hành tạm giữ, tạm giam, VKS có thẩm quyền kiểm sát việc quản lý và thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam tại các cơ sở giam giữ; thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam khắc phục vi phạm, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, VKS còn giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS. Những hoạt động trên của VKS góp phần bảo đảm việc áp dụng tạm giữ, tạm giam và chế độ tạm giữ, tạm giam được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, QCN và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị tạm giữ, tạm giam không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; mọi vi phạm pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và quản lý người bị tạm giữ, tạm giam phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.

Thứ ba, bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam dựa trên mối quan hệ giữa luật nội dung và luật tố tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam hiện hành đều quy định về nội dung quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam cũng như vai trò, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong bảo đảm quyền con người của họ thông qua hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam. Trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, người bị áp dụng là đối tượng của Viện kiểm sát trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Trong trường hợp các quyền con người của họ bị xâm phạm, thông qua các chức năng, nhiệm vụ được pháp luật trang bị, Viện kiểm sát sẽ thực hiện một trong các quyền hủy bỏ, kiến nghị, yêu cầu đối với cơ quan hoặc cá nhân có liên quan, qua đó nhằm kịp thời ngăn chặn, hạn chế những vi phạm trong tạm giữ, tạm giam.

– Thứ tư, bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam được thực hiện đối với tất cả những người bị tạm giữ, tạm giam; họ đều bình đẳng trong việc hưởng thụ các QCN mà pháp luật ghi nhận và đều thuộc đối tượng kiểm sát của VKS các cấp, không phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, địa vị xã hội,… của họ. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam, hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp vi phạm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKS.

Theo Ths.Kểm sát viên Vũ Minh Hải

Bài viết liên quan