Giải đáp các tình huống pháp luật về kinh doanh thương mại

GIẢI ĐÁP CÁC TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH THƯƠNG MẠI

 

Câu 1: Để hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật, cần đáp ứng những điều kiện nào?

            Luật Thương mại năm 2005 không quy định các điều kiện để một hợp đồng thương mại có hiệu lực pháp luật. Do đó, để xem xét điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại, phải áp dụng các quy định trong BLDS năm 2015. Hợp đồng là một hình thức của giao dịch dân sự nên điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực chính là điều kiện để hợp đồng có hiệu lực. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 như sau:

            – Chủ thể tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự: Trong quan hệ thương mại, do người tham gia giao dịch chủ yếu là thương nhân nên việc xác định năng lực chủ thể tham gia hợp đồng cũng có những đặc thù nhất định. Ngoài điều kiện thành lập hợp pháp, nội dung đăng ký kinh doanh của thương nhân là “thước đo” năng lực thực hiện hành vi kinh doanh của thương nhân, bởi vì Điều 8  Luật Doanh nghiệp năm 2017  quy định: doanh nghiệp có nghĩa vụ kinh doanh đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. Ví dụ: Một doanh nghiệp đăng ký kinh doanh lĩnh vực xây dựng thì không thể là chủ thể hợp pháp của một hợp đồng kinh doanh gạo.

            – Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội được xã hội thừa nhận, tôn trọng.

            – Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.

Tham khảo thêm Mẫu đơn rút khiếu nại và các quy định pháp luật về rút khiếu nại

Câu hỏi 2: Hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai thương nhân có chịu sự điều chỉnh của Bộ Luật Dân sự năm 2015 hay không?

            Hợp đồng mua bán hàng hoá giữa hai thương nhân có chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2015. Vì hiện nay nguồn luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động thương mại tại Việt Nam được chia thành hai nhóm:

            Thứ nhất, nhóm các quy định chung về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. (Gồm các quy định về những vấn đề chung được áp dụng cho tất cả các quan hệ hợp đồng như: đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thời điểm hình thành quan hệ hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng…)

            Thứ hai, nhóm các quy định riêng (chuyên ngành) về hợp đồng trong hoạt động thương mại trong các văn bản pháp luật chuyên ngành như: Luật Thương mại năm 2005, Luật Xây dựng năm 2014, Luật Đấu thầu năm 2015…

            Những quy định chung được coi là khung pháp lý cơ bản còn những quy định cụ thể của pháp luật chuyên ngành lại điều chỉnh những vấn đề cụ thể của các loại hợp đồng riêng biệt. Do đó, các văn bản pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng trước, trong trường hợp văn bản pháp luật chuyên ngành không có quy định thì sẽ áp dụng quy định chung trong Bộ luật Dân sự năm 2015.

Câu hỏi 3: Thương nhân có thể từ chối áp dụng Luật Thương mại và chọn Bộ luật Dân sự làm cơ sở ký kết và thực hiện hợp đồng với thương nhân khác hay không?

            Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Thương mại năm 2005, đối tượng áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 là thương nhân hoạt động thương mại theo quy định tại Điều 1 của Luật Thương mại năm 2005. Ngoài ra, như trên đã trình bày, khi áp dụng quy định của pháp luật, các văn bản pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng trước, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ được áp dụng trong trường hợp các văn bản pháp luật liên quan không có quy định.

            Do đó, thương nhân ký kết và thực hiện hợp đồng với thương nhân khác phải tuân thủ quy định của Luật Thương mại năm 2005. Chỉ khi Luật Thương mại năm 2005 không quy định, mới áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Câu hỏi 4: Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại có những đặc điểm gì?

            Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hoá có những đặc điểm sau:

            – Chủ thể của hợp đồng: chủ yếu là thương nhân (có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài). Ngoài thương nhân, các tổ chức, cá nhân khác cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa nếu lựa chọn Luật Thương mại năm 2005 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và thương nhân. Vì theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại năm 2005 thì Luật Thương mại năm 2005 sẽ điều chỉnh hoạt động không nhằm mục đích sinh lời của một bên trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật Thương mại năm 2005.

            – Đối tượng của hợp đồng: là hàng hoá. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, hàng hóa bao gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai.

            – Hình thức của hợp đồng: theo quy định tại Điều 24 Luật Thương mại năm 2005, hợp đồng mua bán hàng hoá có thể thể hiện bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó. Ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải thể hiện bằng văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 27 Luật Thương mại năm 2005).

            – Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá: là các điều khoản do các bên tự do thoả thuận thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hoá.

Câu hỏi 5: Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự có những điểm gì giống và khác nhau?

            Hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự đều là sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu cho bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng, quyền sở hữu và thanh toán cho bên bán.

            Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hoá được coi là một dạng đặc biệt của hợp đồng mua bán tài sản, bởi: phạm vi chủ thể, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá đều hẹp hơn hợp đồng mua bán tài sản.

            – Phạm vi chủ thể: chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá chủ yếu là thương nhân. Chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản có thể là mọi tổ chức, cá nhân có năng lực hành vi dân sự. Do đó, trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá, ít nhất một bên chủ thể có mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng trong quan hệ hợp đồng mua bán tài sản, ít nhất một bên có mục đích sinh hoạt tiêu dùng.

            – Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng hoá (bao gồm: tất cả các loại động sản (kể cả động sản hình thành trong tương lai) và những vật gắn liền với đất đai) (khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Trong khi đó, đối tượng của mua bán tài sản là tài sản được phép giao dịch (Điều 431 BLDS năm 2015). Theo quy định tại Điều 105 của BLDS năm 2015, tài sản là đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản không chỉ gồm có động sản, vật gắn liền với đất đai mà còn có bất động sản, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.

Câu hỏi 6: Thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua có đồng thời là thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hoá không?

            Về nguyên tắc, chủ sở hữu hàng hoá phải chịu mọi rủi ro liên quan đến hàng hoá đó. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp, thời điểm chuyển sở hữu hàng hoá từ người bán sang người mua đều là thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hoá đó.

Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng hoá là thời điểm hàng hóa được chuyển giao, trừ trường hợp hàng hoá mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu hàng hoá được chuyển cho bên mua từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với hàng hoá đó. Nhưng rủi ro về hàng hoá có thể được chuyển cho người mua trước khi chuyển quyền sở hữu hàng hoá trong trường hợp sau:

– Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá hoặc khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua (Điều 59 Luật Thương mại năm 2005).

– Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng (Điều 60 Luật Thương mại năm 2005).

Câu hỏi 7: Dịch vụ thương mại có những đặc điểm pháp lý như thế nào?

            Hiểu một cách khái quát, dịch vụ là các hoạt động của con người, được kết tinh thành các loại sản phẩm vô hình và không thể cầm nắm được. Dịch vụ thương mại bao gồm tất cả các loại hình dịch vụ do thương nhân thực hiện nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.

            Dịch vụ thương mại có đầy đủ các đặc điểm của dịch vụ nói chung là:

            + Là sản phẩm vô hình được tạo ra từ quá trình sản xuất, lao động của con người nên dịch vụ mang hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

            + Dịch vụ không có tính đồng nhất, khó tiêu chuẩn hoá vì thước đo chất lượng dịch vụ là mức độ “hài lòng” của bên yêu cầu dịch vụ đối với quá trình cung ứng dịch vụ.

            + Dịch vụ không có tính tách rời giữa quá trình sản xuất và tiêu dùng. Quá trình sản xuất và tiêu dung dịch vụ diễn ra đồng thời, sau đó, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch vụ được chuyển tải vào các giá trị vật chất khác, còn bản thân dịch vụ không còn tồn tại.

            + Dịch vụ không thể cất giữ và lưu kho bãi. Sau khi sản xuất ra, hàng hoá có thể lưu kho bãi và không nhất thiết phải tham gia ngay vào quá trình lưu thông, tiêu dùng. Nhưng với dịch vụ, vì quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời và dịch vụ có tính vô hình nên không thể cất giữ và lưu kho bãi.

             Ngoài ra, dịch vụ thương mại có những đặc điểm riêng như sau:

            + Chủ thể thực hiện hoạt động cung ứng dịch thương mại phải là thương nhân có đăng ký kinh doanh để thực hiện việc cung ứng dịch vụ thương mại.

            + Mục đích của thương nhân khi thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại là tìm kiếm lợi nhuận.

Câu hỏi 8: Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại có điểm gì giống và khác hợp đồng mua bán hàng hoá?

            Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại được hiểu là sự thoả thuận giữa thương nhân cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ, theo đó, thương nhân cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ để được hưởng thù lao.

            Hợp đồng mua bán hàng hoá là sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.

            Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại và hợp đồng mua bán hàng hoá khác nhau ở đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá là hàng hoá, còn đối tượng của hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại là việc cung ứng dịch vụ của bên cung ứng cho bên sử dụng dịch vụ. Ngoài ra, hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại và hợp đồng mua bán hàng hoá giống nhau ở những điểm sau:

            – Chủ thể: chủ yếu là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ.

            – Hình thức: có thể bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể (Điều 24, 74 Luật Thương mại 2005).

            – Nội dung hợp đồng: là các điều khoản do các bên tự do thoả thuận nhưng không được trái pháp luật và vi phạm đạo đức xã hội.

Câu hỏi 9: Các đặc điểm của hoạt động trung gian thương mại theo quy định của pháp luật hiện hành?

            Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.

            Hoạt động trung gian thương mại có các đặc điểm sau:

            – Hoạt động trung gian thương mại là một loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại, có bản chất là Bên cung ứng dịch vụ (bên đại diện, bên môi giới, bên nhận uỷ thác, bên đại lý thương mại) thực hiện thay cho thương nhân khác (bên sử dụng dịch vụ: bên giao đại diện, bên được môi giới, bên uỷ thác, bên giao đại lý thương mại) một số công việc theo thỏa thuận để hưởng thù lao.

            – Các loại hoạt động trung gian thương mại: gồm đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại.

            – Chủ thể của hoạt động trung gian thương mại: Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, chủ thể tham gia vào hoạt động trung gian thương mại đều phải là thương nhân. Tuy nhiên, trong phần V – Các hoạt động trung gian thương mại, Luật Thương mại năm 2005 chỉ quy định các bên trong quan hệ đại diện cho thương nhân và đại lý thương mại phải là thương nhân tại các Điều 141 và 167. Ngoài ra, trong quan hệ môi giới thương mại, Luật Thương mại năm 2005 chỉ quy định bên môi giới phải là thương nhân mà không có quy định bên được môi giới có phải là thương nhân hay không. Điều 156, 157 Luật Thương mại năm 2005 quy định bên nhận uỷ thác phải là thương nhân nhưng bên uỷ thác có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân. Có thể thấy quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 về hoạt động trung gian thương mại đã mâu thuẫn trực tiếp với quy định tại Điều 157 Luật Thương mại năm 2005.

            – Cơ sở pháp lý của hoạt động trung gian thương mại là hợp đồng do các bên thoả thuận. Luật Thương mại 2005 chỉ quy định hợp đồng đại diện cho thương nhân, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Do đó, hợp đồng môi giới thương mại có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói, hành vi cụ thể.

Câu hỏi 10: Hoạt động đại diện cho thương nhân có những đặc điểm gì giống và khác với hoạt động đại diện theo uỷ quyền trong dân sự?

            Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện (khoản 1 Điều 141 Luật Thương mại năm 2005).

            Theo quy định tại Điều 134 BLDS năm 2015, đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Có hai loại đại diện là đại diện theo pháp luật và đại diện theo uỷ quyền. Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người đại diện và người được đại diện.

            Từ các quy định trên có thể khẳng định đại diện cho thương nhân là một dạng của đại diện theo uỷ quyền trong dân sự. Bởi: chủ thể của quan hệ đại diện cho thương nhân và quan hệ đại diện theo uỷ quyền đều có bên đại diện và bên giao đại diện. Khi bên đại diện giao dịch với bên thứ ba trong phạm vi đại diện thì về mặt pháp lý, các hành vi do bên đại diện thực hiện sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ cho bên giao đại diện.

            Nhưng đại diện cho thương nhân có các đặc điểm riêng so với đại diện theo uỷ quyền theo quy định của BLDS 2015 như:

            – Phạm vi chủ thể của quan hệ đại diện cho thương nhân hẹp hơn chủ thể của quan hệ uỷ quyền trong dân sự: Bất kỳ chủ thể nào đáp ứng đủ điều kiện về năng lực chủ thể đều có thể tham gia quan hệ uỷ quyền trong dân sự nhưng trong quan hệ đại diện cho thương nhân, cả bên đại diện và bên giao đại diện đều phải là thương nhân.

            – Hoạt động đại diện cho thương nhân nhằm mục đích sinh lợi, đại diện theo uỷ quyền không nhất thiết phải có mục đích này.

            – Nội dung của hoạt động đại diện cho thương nhân là việc ủy nhiệm thực hiện các hoạt động thương mại. Nội dung hoạt động đại diện theo uỷ quyền là trong mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội.

            – Hợp đồng đại diện theo uỷ quyền chỉ mang tính đền bù khi các bên có thoả thuận nhưng hợp đồng đại diện cho thương nhân luôn mang tính đền bù.

            – Hình thức của hợp đồng đại diện cho thương nhân phải lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Hợp đồng uỷ quyền trong dân sự không nhất thiết phải bằng văn bản.

Câu hỏi 11: Thương nhân kinh doanh dịch vụ đại diện có thể làm đại diện cho nhiều thương nhân khác nhau hay không?

Theo quy định tại khoản 4 Điều 145 Luật Thương mại năm 2005, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại diện không được thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa của mình hoặc của người thứ ba trong phạm vi đại diện. Phạm vi đại diện có thể hiểu là phạm vi theo lãnh thổ hoặc phạm vi theo lĩnh vực hoạt động thương mại do các bên thoả thuận xác định.

Như vậy, trong trường hợp các bên không có thoả thuận, bên đại diện được làm đại diện cho nhiều thương nhân khác nhau nếu phạm vi đại diện không mâu thuẫn nhau. Bên đại diện không được làm đại diện cho hai hay nhiều thương nhân trong cùng phạm vi đại diện.

Câu hỏi 12: Theo quy định của pháp luật, bên giao đại diện phải chịu trách nhiệm như thế nào về những hợp đồng do bên đại diện nhân danh bên giao đại diện ký kết?

            Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận uỷ nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện. Các bên có thể thoả thuận về việc bên đại diện được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động thương mại thuộc phạm vi hoạt động của bên giao đại diện. Như vậy, trong thời hạn đại diện, mọi hợp đồng do bên đại diện ký kết trong phạm vi đại diện với khách hàng đều làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc bên giao đại diện.

            Trong trường hợp bên đại diện nhân danh bên giao đại diện ký kết hợp đồng khi đã hết thời hạn đại diện thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý. Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện (Điều 142 BLDS năm 2015).

            Trong trường hợp bên đại diện nhân danh bên giao đại diện ký kết hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện thì sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được sự đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. (143 BLDS năm 2015).

Câu hỏi 12: Hoạt động môi giới thương mại có những đặc điểm như thế nào?

            Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới. (Điều 150 Luật Thương mại năm 2005).

               Hoạt động môi giới thương mại có những đặc điểm sau:

               – Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được môi giới. Bên môi giới phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động môi giới thương mại. Bên được môi giới có thể là thương nhân hoặc không.

            – Nội dung của hoạt động môi giới rất rộng, gồm nhiều hoạt động như: tìm kiếm, cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc, giúp đỡ các bên đàm phán, giao kết hợp đồng nếu họ có yêu cầu…Luật Thương mại năm 2005 quy định môi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động môi giới có mục đích kiếm lợi như: môi giới tầu biển, môi giới bất động sản…Tuy nhiên, trong các hoạt động môi giới tm ở từng lĩnh vực riêng biệt đều có quy định cụ thể của các văn bản pháp luật chuyên ngành như: môi giới bảo hiểm được quy định trong luật kinh doanh bảo hiểm.

            – Cơ sở pháp lý của quan hệ môi giới là hợp đồng môi giới. Hợp đồng một giới có thể được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể.

Câu hỏi 14: Sau khi ký hợp đồng môi giới với thương nhân A, thương nhân B đã tiến hành rất nhiều hoạt động để môi giới cho thương nhân A ký kết hợp đồng nhưng đều không thành công. Thương nhân A có phải thanh toán thù lao môi giới cho thương nhân B không?

            Theo quy định tại khoản 1 Điều 153 Luật Thương mại năm2005, nếu các bên không có thoả thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau. Như vậy, trong trường hợp trên thương nhân A không phải thanh toán thù lao môi giới cho thương nhân B nếu các bên không có thoả thuận. Tuy nhiên, nếu các bên không có thoả thuận khác, thương nhân A phải thanh toán các chi phí phát sinh hợp lý liên quan đến việc môi giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho thương nhân B (Điều 154 Luật Thương mại năm 2005).

Câu hỏi 15: Bên môi giới có được quyền nhân danh bên được môi giới ký kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba hay không?

            Khoản 4 Điều 151 Luật Thương mại năm 2005 quy định, bên môi giới thương mại không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có uỷ quyền của bên được môi giới. Do đó, bên môi giới có thể nhân danh bên được môi giới ký kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba nếu được bên được môi giới uỷ quyền. Trong trường hợp này, quan hệ giữa bên môi giới và bên được môi giới trở thành quan hệ đại diện cho thương nhân.

Câu hỏi 16: Hoạt động đại lý thương mại có những đặc điểm như thế nào?

            Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao (Điều 166 Luật Thương mại năm 2005).

            Hoạt động đại lý thương mại có các đặc điểm sau:

            – Chủ thể: gồm bên đại lý và bên giao đại lý.  Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ (Điều 167 Luật Thương mại năm 2005). Như vậy, bên đại lý và bên giao đại lý đều phải là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài. Trong trường hợp hàng hoá thuộc danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng đại lý bán hàng hoá tại nước ngoài hoặc làm đại lý cho thương nhân nước ngoài sau khi được Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) cho phép.

            – Nội dung của hoạt động đại lý thương mại: là việc bên đại lý nhận hàng hoá để làm đại lý bán hoặc nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc nhận làm cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Để thực hiện hoạt động đại lý, bên đại lý được quyền tự do lựa chọn bên thứ ba và nhân danh chính mình khi giao kết và thực hiện hợp đồng cho bên giao đại lý.

            – Cơ sở pháp lý của quan hệ đại lý thương mại là hợp đồng đại lý được giao kết giữa bên đại lý với bên giao đại lý. Hợp đồng đại lý phải được thể hiện bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

Câu hỏi 17: Hợp đồng phân phối và hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá có điểm gì giống và khác nhau?

            Trong thực tiễn kinh doanh, hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá thường bị nhầm lẫn với hợp đồng phân phối hàng hoá. Hợp đồng phân phối hàng hoá được pháp luật rất nhiều nước quy định với ý nghĩa là một dạng hợp đồng mua sỉ, bán lẻ nhưng không được đề cập đến trong Luật Thương mại năm 2005. Hợp đồng phân phối hàng hoá được hiểu là sự thoả thuận giữa nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp hàng hoá, theo đó nhà phân phối nhân danh chính mình mua hàng hoá của người cung cấp để bán lại. Nhà cung cấp hàng hoá có thể chấp thuận chỉ giao hàng hoá cho duy nhất một nhà phân phối trong một khu vực địa lý xác định.

            Hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá và hợp đồng phân phối hàng hoá đều là sự thoả thuận giữa các thương nhân, theo đó, một bên có nghĩa vụ thực hiện việc mua, bán hàng hoá cho bên kia để nhận thù lao. Tuy nhiên, hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá và hợp đồng phân phối hàng hoá khác nhau ở điểm sau:

            Thứ nhất, trong quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá, bên giao đại lý chỉ giao hàng hoá cho bên đại lý bán hàng mà không chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên đại lý. Khi bên đại lý giao kết, thực hiện hợp đồng với khách hàng, quyền sở hữu hàng hoá sẽ được chuyển từ bên giao đại lý sang cho khách hàng. Với tư cách là chủ sở hữu của hàng hoá, bên giao đại lý được toàn quyền định đoạt đối với hàng hoá của mình cũng như phải chịu mọi rủi ro đối với hàng hoá cũng như gánh chịu mọi trách nhiệm với khách hàng về chất lượng của hàng hoá (trừ trường hợp hàng hoá hư hỏng do lỗi của bên đại lý). Nhưng trong quan hệ hợp đồng phân phối hàng hoá, nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá có trách nhiệm chuyển quyền sở hữu hàng hoá của mình cho nhà phân phối để nhận tiền. Nhà phân phối mua hàng hoá với tư cách là khách hàng của nhà sản xuất để bán lại cho người tiêu dùng. Sau khi thực hiện việc mua bán hàng hoá với nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá, nhà phân phối trở thành chủ sở hữu hợp pháp của hàng hoá, được toàn quyền định đoạt số phận của hàng hoá, tự gánh chịu mọi rủi ro và chịu trách nhiệm trước người tiêu dùng.

            Thứ hai, trong quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá, bên giao đại lý có quyền ấn định giá bán hàng hoá và bên đại lý bán hàng hoá có nghĩa vụ phải bán hàng theo đúng giá mà bên giao đại lý đã ấn định. Nhưng trong quan hệ hợp đồng phân phối hàng hoá thì nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá không được quyền ấn định giá bán hàng hoá cho nhà phân phối. Nhà phân phối là chủ sở hữu của hàng hoá, có quyền bán lại hàng hoá cho khách hàng với mức giá không phụ thuộc ý chí của nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá.

            Thứ ba, quan hệ phân phối hàng hoá với tính chất là một quan hệ “mua đứt, bán đoạn”, nhà phân phối không có trách nhiệm phải tuân thủ những chỉ dẫn của nhà cung ứng liên quan đến hoạt động mua bán hàng hoá cho khách hàng của mình. Nhưng trong quan hệ hợp đồng đại lý mua bán hàng hoá, bên đại lý có trách nhiệm phải tuân thủ những chỉ dẫn của bên giao đại lý khi thực hiện hoạt động đại lý.

Tham khảo thêm Khái niệm, đặc điểm và nội dung của hợp đồng dân sự? Phân loại hợp đồng dân sự.

Câu hỏi 18: Việc bên giao đại lý ấn định giá bán hàng hoá trong hợp đồng đại lý thương mại có hợp pháp không? Nếu có thì đây là hình thức đại lý gì?

            Theo quy định tại khoản 1 Điều 172, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên giao đại lý có quyền ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng. Như vậy, việc bên giao đại lý ấn định giá bán hàng hoá là hợp pháp.

            Luật Thương mại năm 1997 đã coi đây là hình thức đại lý hoa hồng và đưa ra khái niệm đại lý hoa hồng tại khoản 1 Điều 116: “Đại lý hoa hồng là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán hàng theo giá mua, giá bán do bên giao đại lý ấn định để được hưởng hoa hồng. Mức hoa hồng được tính theo tỷ lệ phần trăm do các bên thoả thuận trên giá mua, giá bán hàng hoá”.

            Hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm hình thức đại lý này. Luật Thương mại năm 2005 không quy định khái niệm hình thức đại lý này nhưng có thể hiểu đại lý hoa hồng là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán hàng theo giá mua, giá bán do bên giao đại lý ấn định để được hưởng một khoản thù lao dưới hình thức hoa hồng tính theo tỷ lệ phần trăm do các bên thoả thuận trên giá mua, bán hàng hoá.

Câu hỏi 19: Nếu khách hàng bị ngộ độc sau khi uống nước ngọt mua của bên đại lý thì bên đại lý hay bên giao đại lý phải chịu trách nhiệm?

            Theo quy định tại khoản 2 Điều 173 Luật Thương mại năm 2005, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên giao đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ. Như vậy, nếu khách hàng bị ngộ độc sau khi uống nước ngọt mua của bên đại lý thì bên giao đại lý cóa thể phải chịu trách nhiệm do lỗi bảo quản. Tuy nhiên, trong trường hợp bên đại lý có lỗi thì cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa với khách hàng

Câu hỏi 20: Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá có những đặc điểm như thế nào?

            Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá được hiểu là sự thoả thuận giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác.

            Hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá có các đặc điểm như sau:

            – Chủ thể: gồm bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác. Bên uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhân hoặc không phải là thương nhân giao cho bên nhận uỷ thác thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác mua bán hàng hoá phải là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác.

            – Đối tượng của hợp đồng: là việc mua, bán hàng hoá do bên nhận uỷ thác tiến hành theo yêu cầu của bên uỷ thác.

            – Nội dung của hợp đồng: là các điều khoản do các bên tự thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Để đảm bảo quyền tự do cho các bên khi giao kết hợp đồng, Luật Thương mại năm 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá.

            – Hình thức của hợp đồng: hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá phải thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 159 Luật Thương mại năm 2005).

Câu hỏi 21: Hoạt động đại lý thương mại có những điểm gì giống và khác với hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá?

            Hoạt động đại lý thương mại và hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá giống nhau ở những điểm sau:

            – Về bản chất, hoạt động đại lý thương mại hay hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá đều được thực hiện thông qua các thương nhân trung gian, những người này, bằng danh nghĩa của mình giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba vì lợi ích của người khác để hưởng thù lao.

            – Cơ sở pháp lý: là hợp đồng, phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

            Hoạt động đại lý thương mại và hoạt động uỷ thác mua bán hàng hoá khác nhau ở những điểm sau:

            – Về chủ thể: Hai bên chủ thể giao kết hợp đồng đại lí thương mại đều phải là thương nhân. Nhưng trong quan hệ hợp đồng uỷ thác mua bán bán hàng hoá, bên uỷ thác không nhất thiết phải là thương nhân.

            – Đối tượng của hợp đồng: phạm vi đối tượng của hợp đồng đại lý thương mại rộng hơn hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá. Đối tượng của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá là việc bên nhận uỷ thác mua hoặc bán hàng hoá  theo yêu cầu của bên uỷ thác. Đối tượng hợp đồng đại lý thương mại không chỉ là việc bên đại lý mua, bán hàng hoá mà còn bao gồm cả việc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho bên thứ ba.

            – Bên đại lý thương mại được tự do hơn bên nhận uỷ thác trong việc lựa chọn đối tác, giao kết và thực hiện hợp đồng.

            – Để thực hiện hợp đồng đại lý thương mại, bên đại lý thực hiện toàn bộ các hành vi trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Bên nhận uỷ thác có thể chỉ sử dụng danh nghĩa của mình ký hợp đồng với khách hàng; còn việc giao hàng, thanh toán có thể được thực hiện trực tiếp giữa bên uỷ thác với khách hàng.

            – Quan hệ uỷ thác mua bán hàng hoá thường mang tính vụ việc, đơn lẻ còn quan hệ đại lý thương mại thường là quá trình hợp tác lâu dài giữa bên đại lý và bên giao đại lý.

Câu hỏi 22: Hoạt động xúc tiến thương mại có những đặc điểm gì?

            Xúc tiến thương mại (XTTM) là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. (khoản 10 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).

            XTTM là hoạt động thương mại do thương nhân thực hiện trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, do vậy, XTTM có các đặc điểm chung của hoạt động thương mại. Ngoài ra, hoạt động xúc tiến thương mại có những đặc điểm riêng như sau:

            –  Chủ thể: chủ yếu là thương nhân, có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài.

            – Mục đích của thương nhân khi thực hiện hoạt động XTTM là để hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ của mình.

            – Cách thức thực hiện XTTM: có thể là thương nhân tự mình thực hiện XTTM hoặc thuê thương nhân khác thực hiện XTTM cho mình.

            – Các hình thức XTTM: khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ; hội chợ, triển lãm thương mại.

Câu hỏi 23: Hoạt động khuyến mại có những đặc điểm gì?

            Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định. (Khoản 1 Điều 88 Luật Thương mại năm 2005).

            Khuyến mại có các đặc điểm cơ bản sau đây:

            – Chủ thể thực hiện khuyến mại là thương nhân, có thể là thương nhân tự thực hiện khuyến mại để tăng cơ hội kinh doanh cho mình hoặc thực hiện khuyến mại cho hàng hoá, dịch vụ của thương nhân khác để hưởng thù lao.

            – Cách thức và mục đích XTTM thông qua khuyến mại là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định để khuyến khích khách hàng sử dụng hàng hoá, dịch vụ của thương nhân. Lợi ích dùng để khuyến mại cho khách hàng có thể là lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất.

            – Đối tượng được khuyến mại: khách hàng hoặc các trung gian phân phối như các đại lý bán hàng…

            – Hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ được thương nhân sử dụng các hình thức khuyến mại để xúc tiến việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đó. hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại phải là hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp.

            – Hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại là hàng hoá, dịch vụ dùng để tặng, thưởng, cung ứng không thu tiền cho khách hàng. hàng hoá, dịch vụ được thương nhân dùng để khuyến mại có thể là hàng hoá, dịch vụ mà thương nhân đó đang kinh doanh hoặc hàng hoá, dịch vụ của thương nhân khác. Dịch vụ được dùng để khuyến mại phải là hàng hoá, dịch vụ được kinh doanh hợp pháp. Chính phủ quy định cụ thể hạn mức tối đa về giá trị của hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, mức giảm giá tối đa đối với hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại mà thương nhân được thực hiện trong hoạt động khuyến mại.

Câu hỏi 24: Luật Thương mại năm 2005 quy định những hình thức khuyến mại nào?

            Theo quy định tại Điều 92 Luật Thương mại năm 2005, các hình thức khuyến mại gồm:

Đưa hàng hoá mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền.

– Tặng hàng hoá cho khách hàng, cung ứng dịch vụ không thu tiền.

– Bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng dịch vụ trước đó, được áp dụng trong thời gian khuyến mại đã đăng ký hoặc thông báo. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ thuộc diện Nhà nước quản lý giá thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

– Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ để khách hàng được hưởng một hay một số lợi ích nhất định.

– Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.

– Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.

– Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hoá, dịch vụ hoặc các hình thức khác.

– Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.

– Các hình thức khuyến mại khác nếu được cơ quan quản lý nhà nước về thương mại chấp thuận.

Câu hỏi 25: Quảng cáo thương mại có những điểm gì giống và khác với khuyến mại

            Quảng cáo thương mại và khuyến mại đều là hoạt động xúc tiến thương mại do thương nhân thực hiện để thúc đẩy việc mua bán hàng hoá, sử dụng dịch vụ của mình hoặc của thương nhân khác. Tuy nhiên điểm khác nhau cơ bản giữa quảng cáo thương mại và khuyến mại là ở cách thức xúc tiến thương mại. Cách thức xúc tiến thương mại thông qua khuyến mại là dành cho khách hàng những lợi ích nhất định để khuyến khích khách hàng mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ của thương nhân. Cách thức xúc tiến thương mại của quảng cáo thương mại là sử dụng các sản phẩm quảng cáo để thông tin về hàng hoá, dịch vụ của thương nhân đến khách hàng, qua đó thu hút khách hàng mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ của thương nhân.

Câu hỏi 26: Quảng cáo thương mại và trưng bày giới thiệu hàng hoá có gì khác nhau?

            Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hoá, dịch vụ đó

            Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình. (Điều 102 Luật Thương mại năm 2005)

            Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và quảng cáo thương mại đều giúp thương nhân thông tin về hàng hoá, dịch vụ của mình đến với khách hàng để thúc đẩy việc mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ của thương nhân. Nhưng nếu trong quảng cáo thương mại sử dụng các hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết…thể hiện thông qua các sản phẩm quảng cáo như xuất bản phẩm, băng – rôn, panô, áp phích… để giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ lại sử dụng chính hàng hoá, dịch vụ và tài liệu về hàng hoá, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hoá, dịch vụ đó.

Câu hỏi 27: Thương nhân có quyền bán hàng hoá của mình tại hội chợ, triển lãm thương mại hay không?

            Hàng hoá, dịch vụ trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam được phép bán, tặng, cung ứng tại hội chợ, triển lãm thương mại. Đối với hàng hóa nhập khẩu phải đăng ký với hải quan, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện nhập khẩu phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được bán, tặng sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản.

            Hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài được phép bán, tặng, cung ứng tại hội chợ, triển lãm, trừ hai trường hợp sau: một là, việc bán, tặng hàng hóa thuộc diện cấm xuất khẩu nhưng đã được tạm xuất khẩu để tham gia hội chợ, triển lãm thương mại ở nước ngoài chỉ được thực hiện sau khi có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ; hai là hàng hóa thuộc diện xuất khẩu phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được bán, tặng sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản. (khoản 1 Điều 137 Luật Thương mại năm 2005).

Câu hỏi 28: Dịch vụ logistics có những đặc điểm như thế nào?

            Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stíc. (Điều 233 Luật Thương mại năm 2005).

            Dịch vụ logistics có các đặc điểm như sau:

            – Chủ thể của quan hệ dịch vụ gồm bên cung ứng dịch vụ logistics và bên sử dụng dịch vụ logistics. Bên cung ứng dịch logistics phải là thương nhân, có đăng ký kinh doanh để thực hiện dịch vụ logistics. Bên sử dụng dịch vụ logistics có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.

            – Dịch vụ logistics là một loại hình dịch vụ, theo đó, thương nhân kinh doanh dịch vụ thực hiện công việc cho khách hàng để được hưởng thù lao.

            – Nội dung của dịch vụ logistics rất đa dạng, có thể bao gồm những công việc như:

            + Nhận hàng, đóng gói bao bì, ghi ký hiệu…để vận chuyển;

            + Làm thủ tục giấy tờ để gửi hoặc nhận hàng hoá;

            + Tổ chức lưu kho, lưu bãi, bảo quản hàng hoá;…

            – Cơ sở pháp lý của hoạt động cung ứng dịch vụ logistics là hợp đồng dịch vụ logistics giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics và khách hàng.

Câu hỏi 29: Pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics?

Pháp luật Việt Nam quy định khác nhau về điều kiện kinh doanh đối với từng loại dịch vụ logistics cụ thể tại Nghị định số 163/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2017 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.

Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định:

Điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics

  1. Thương nhân kinh doanh các dịch vụ cụ thể thuộc dịch vụ logistics quy định tại Điều 3 Nghị định này phải đáp ứng các điều kiện đầu tư, kinh doanh theo quy định của pháp luật đối với dịch vụ đó.
  2. Thương nhân tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh logistics bằng phương tiện điện tử có kết nối mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác, ngoài việc phải đáp ứng theo quy định của pháp luật đối với các dịch vụ cụ thể quy định tại Điều 3 Nghị định này, còn phải tuân thủ các quy định về thương mại điện tử.
  3. Điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài kinh doanh dịch vụ logistics:

Ngoài việc đáp ứng các điều kiện, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, nhà đầu tư nước ngoài thuộc nước, vùng lãnh thổ là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới được cung cấp dịch vụ logistics theo các điều kiện sau:

  1. a) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải biển (trừ vận tải nội địa):

– Được thành lập các công ty vận hành đội tàu treo cờ Việt Nam hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%. Tổng số thuyền viên nước ngoài làm việc trên các tàu treo cờ quốc tịch Việt Nam (hoặc được đăng ký ở Việt Nam) thuộc sở hữu của các công ty này tại Việt Nam không quá 1/3 định biên của tàu. Thuyền trưởng hoặc thuyền phó thứ nhất phải là công dân Việt Nam.

– Công ty vận tải biển nước ngoài được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp.

  1. b) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ vận tải biển (có thể dành riêng một số khu vực để cung cấp các dịch vụ hoặc áp dụng thủ tục cấp phép tại các khu vực này), được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%. Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
  2. c) Trường hợp kinh doanh dịch vụ xếp dỡ container thuộc các dịch vụ hỗ trợ mọi phương thức vận tải, trừ dịch vụ cung cấp tại các sân bay, được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%.
  3. d) Trường hợp kinh doanh dịch vụ thông quan thuộc dịch vụ hỗ trợ vận tải biển, được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.

đ) Trường hợp kinh doanh các dịch vụ khác, bao gồm các hoạt động sau: Kiểm tra vận đơn, dịch vụ môi giới vận tải hàng hóa, kiểm định hàng hóa, dịch vụ lấy mẫu và xác định trọng lượng; dịch vụ nhận và chấp nhận hàng; dịch vụ chuẩn bị chứng từ vận tải, được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước.

  1. e) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường thủy nội địa, dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường sắt, được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%.
  2. g) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa thuộc dịch vụ vận tải đường bộ, được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc được thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 51%. 100% lái xe của doanh nghiệp phải là công dân Việt Nam.
  3. h) Trường hợp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không thực hiện theo quy định của pháp luật về hàng không.
  4. i) Trường hợp kinh doanh dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật

– Đối với những dịch vụ được cung cấp để thực hiện thẩm quyền của Chính phủ được thực hiện dưới hình thức doanh nghiệp trong đó có vốn góp của nhà đầu tư trong nước sau ba năm hoặc dưới hình thức doanh nghiệp trong đó không hạn chế vốn góp nhà đầu tư nước ngoài sau năm năm, kể từ khi nhà cung cấp dịch vụ tư nhân được phép kinh doanh các dịch vụ đó.

– Không được kinh doanh dịch vụ kiểm định và cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải.

– Việc thực hiện dịch vụ phân tích và kiểm định kỹ thuật bị hạn chế hoạt động tại các khu vực địa lý được cơ quan có thẩm quyền xác định vì lý do an ninh quốc phòng.

  1. Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài thuộc đối tượng áp dụng của các điều ước quốc tế có quy định khác nhau về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics, nhà đầu tư được lựa chọn áp dụng điều kiện đầu tư quy định tại một trong các điều ước đó.

Câu hỏi 30: Giới hạn trách nhiệm cña người kinh doanh dịch vụ logistics?

Trả lời:  Theo quy định tại Điều 5 của Nghị định 163/2017/NĐ-CP:

Giới hạn trách nhiệm

  1. Giới hạn trách nhiệm là hạn mức tối đa mà thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng đối với những tổn thất phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện dịch vụ logistics theo quy định tại Nghị định này.
  2. Trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định về giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics thì thực hiện theo quy định của pháp luật liên quan.
  3. Trường hợp pháp luật liên quan không quy định giới hạn trách nhiệm thì giới hạn trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không có thoả thuận thì thực hiện như sau:
  4. a) Trường hợp khách hàng không có thông báo trước về trị giá của hàng hóa thì giới hạn trách nhiệm tối đa là 500 triệu đồng đối với mỗi yêu cầu bồi thường.
  5. b) Trường hợp khách hàng đã thông báo trước về trị giá của hàng hóa và được thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics xác nhận thì giới hạn trách nhiệm sẽ không vượt quá trị giá của hàng hóa đó.
  6. Giới hạn trách nhiệm đối với trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tổ chức thực hiện nhiều công đoạn có quy định giới hạn trách nhiệm khác nhau là giới hạn trách nhiệm của công đoạn có giới hạn trách nhiệm cao nhất.

Câu hỏi 31: Đấu giá hàng hoá có những đặc điểm g×?

            Đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất. (khoản 1 Điều 185 Luật Thương mại năm 2005).

            – Chủ thể tham gia vào hoạt động đấu giá hàng hoá bao gồm: người bán hàng hoá, người tham gia đấu giá hàng hoá và có thể có sự tham gia của thương nhân kinh doanh dịch vụ bán đấu giá với vai trò là người tổ chức đấu giá hàng hoá.

            Người bán hàng hoá là chủ sở hữu hàng hoá, người được chủ sở hữu hàng hoá uỷ quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hoá của người khác theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 186 Luật Thương mại năm 2005).

            Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá (khoản 2 Điều 186 Luật Thương mại 2005).

            Người tham gia đấu giá hàng hoá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá

            – Hình thức bán đấu giá hàng hoá: người bán hàng hoá có thể tự mình tổ chức bán đấu giá hoặc có thể ký hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá với thương nhân kinh doanh dịch vụ bán đấu giá hàng hoá để thực hiện bán đấu giá hàng hoá.

            – Mục đích của hoạt động đấu giá hàng hoá là tìm người mua hàng hoá với giá cao nhất.

            – Đối tượng của hoạt động đấu giá: pháp luật không quy định phạm vi đối tượng của hoạt động đấu giá hàng hoá nên về mặt lý luận tất cả các hàng hoá đều có thể bán thông qua đấu giá. Tuy nhiên, do mục đích của hoạt động đấu giá nên trên thực tế hàng hoá là đối tượng đấu giá thường là những hàng hoá đặc biệt, khó xác định được giá trị thực.

            – Cơ sở pháp lý của quan hệ đấu giá là văn bản bán đấu giá hàng hoá và hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá (trong trường hợp người bán hàng hoá yêu cầu thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hoá tổ chức đấu giá.)

Câu hỏi 32: Đấu giá hàng hoá có thể được tiến hành theo những phương thức nào

               – Căn cứ vào phương pháp xác định giá, có hai phương thức đấu giá là đấu giá theo phương thức trả giá lên và đấu giá theo phương thức đặt giá xuống:

      + Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng. Ở phương thức này, người điều hành đấu giá sẽ đưa ra giá khởi điểm của hàng hoá đấu giá và những người tham gia đấu giá sẽ lần lượt trả giá cao dần, người trả giá cao nhất sẽ được quyền mua hàng hoá đó.

      + Phương thức đặt giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng. Ở phương thức này, người điều hành đấu giá sẽ đưa ra một mức giá khởi điểm, nếu không có người tham gia đấu giá chấp thuận thì người điều hành đấu giá sẽ lần lượt hạ tiếp mức giá xuống thấp hơn cho đến khi tìm được người chấp nhận mua hàng hoá đó.

            – Nếu căn cứ vào phương thức biểu đạt trong quá trình đấu giá hàng hoá, có hai phương thức là đấu giá dùng lời nói và đấu giá không dùng lời nói:

            + Đấu giá dùng lời nói là phương thức đấu giá, điều hành đấu giá và người tham gia đấu giá đều thể hiện giá của hàng hoá thông qua lời nói hoặc một dấu hiệu công khai để tất cả mọi người biết.

            + Đấu giá không dùng lời nói là phương thức đấu giá theo đó, việc trả giá hàng hoá sẽ được những người tham gia đấu giá viết ra giấy thông báo cho riêng người điều hành đấu giá biết. Người điều hành đấu giá sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông báo. Việc đấu giá kéo dài cho tới lần trả giá mà không có ai trả cao hơn giá đã trả cao nhất của lần trả giá liền trước đó.

Câu hỏi 33: Những chủ thể nào được tham gia đấu giá hàng hoá?

            Người tham gia đấu giá hàng hoá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá. Tất cả những tổ chức, cá nhân không rơi vào trường hợp cấm tham gia đấu giá hàng hoá, đều được quyền tham gia đấu giá. Luật Thương mại năm 2005 quy định những người sau không được tham gia đấu giá:

Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.

– Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hoá; cha, mẹ, vợ, chồng, con của những người đó.

– Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hoá bán đấu giá; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó.

– Những người không có quyền mua hàng hoá đấu giá theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi 34: Sau khi kết thúc cuộc đấu giá, người mua hàng có được quyền từ chối mua hàng không

            Sau khi kết thúc cuộc đấu giá, người mua hàng bị ràng buộc trách nhiệm. Tuy nhiên người mua hàng vẫn có thể từ chối mua hàng nếu được người bán hàng chấp thuận. Trong trường hợp này, người mua phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc tổ chức bán đấu giá và không được hoàn trả khoản tiền đặt trước trong trường hợp người mua được hàng hoá đấu giá đã nộp một khoản tiền đặt trước. (Điều 205)

Câu hỏi 35: Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là gì? Thương nhân có buộc phải tổ chức đấu thầu để lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng hay không?

            Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu). (khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại năm 2005).

            Việc quyết định có tổ chức đấu thầu hàng hoá, dịch vụ để lựa chọn nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của mình hay không là do chủ thể tự do quyết định.       Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi một chủ thể có nhu cầu mua sắm hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ, họ có thể lựa chọn một trong rất nhiều thương nhân có khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ đã trở thành một phương thức hiệu quả cho các chủ thể trong việc lựa chọn thương nhân có khả năng cung cấp hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ thỏa mãn những điều kiện của mình với giá cả hợp lý nhất. Đối với các thương nhân, để tăng hiệu quả của quá trình kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận, việc tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu đáp ứng tốt nhất các yêu cầu mà mình đặt ra không phải là một nghĩa vụ bắt buộc mà là một quyền lợi được pháp luật tôn trọng.

Câu hỏi 36: Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ và đấu giá hàng hoá khác nhau ở những điểm gì?

               Theo quy định tại khoản 1 Điều 185 và khoản 1 Điều 214 Luật Thương mại năm 2005, đấu giá hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất. Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu). Như vậy, có thể thấy đấu thầu hàng hoá dịch vụ và đấu giá hàng hoá khác nhau ở những đặc điểm sau:

               – Bản chất của hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là việc người mua, người sử dụng dịch vụ tìm người bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ phù hợp. Nhưng hoạt đấu giá hàng hoá là việc người bán tìm người mua hàng hoá của mình.

               – Đối tượng của hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là tất cả các loại hàng hoá được lưu thông, tất cả các loại dịch vụ được phép thực hiện. Đối tượng của hoạt động đấu giá hàng hoá là các loại hàng hoá đặc biệt. Dịch vụ không thể trở thành đối tượng của hoạt động đấu giá.

               – Mục đích của hoạt động đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là tìm được người bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đáp ứng tốt nhất yêu cầu đặt ra (có thể không phải là người trả giá thấp nhất). Mục đích của hoạt động đấu giá hàng hoá là tìm người mua trả giá cao nhất.

Câu hỏi 37: Hợp đồng nhượng quyền thương mại có những điểm gì khác với hợp đồng đại lý thương mại?

            Tuy đều là một dạng của dịch vụ thương mại nhưng nhượng quyền thương mại và đại lý thương mại có một số điểm khác biệt như sau:

            Thứ nhất, trong quan hệ đại lý thương mại, theo quy định tại Điều 170 Luật Thương mại năm 2005, bên giao đại lý vẫn là chủ sở hữu của hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý. Do đó, trong trường hợp bên đại lý không bán được hàng hoá hoặc có rủi ro xảy ra đối với hàng hoá, bên giao đại lý với tư cách chủ sở hữu phải tự gánh chịu mọi rủi ro về hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý. Nhưng trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền và bên nhượng quyền là hai chủ thể kinh doanh độc lập. Do đó, bên nhận quyền phải tự gánh chịu mọi rủi ro liên quan đến hàng hoá.

            Thứ hai, khoản 2 Điều 173 Luật Thương mại năm 2005 quy định, bên giao đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá của đại lý mua bán hàng hoá, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ. Nhưng trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền và nhượng quyền chỉ là hai chủ thể độc lập, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung. Vì thế, bên nhận quyền phải tự chịu mọi trách nhiệm với khách hàng về chất lượng hàng hoá, chất lượng dịch vụ mà mình cung ứng.

            Thứ ba, theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thương nhân nhận quyền có nghĩa vụ chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền; tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của thương nhân nhượng quyền và điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại. Thương nhân nhượng quyền có quyền kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hoá, dịch vụ (khoản 3 Điều 286 và khoản 3 Điều 289). Nhưng trong quan hệ đại lý thương mại, bên đại lý được quyền chủ động trong việc tổ chức hoạt động mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình và không cần đảm bảo sự thống nhất với các bên đại lý khác.

Câu hỏi 38: Nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ khác nhau như thế nào

               Theo quy định tại khoản 8 Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công nghệ. Như vậy, sau khi nhận chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao công nghệ có thể trở thành chủ sở hữu của công nghệ hoặc không được trao quyền sở hữu công nghệ nhưng được toàn quyền sử dụng công nghệ đó. Do đó, việc sử dụng công nghệ được chuyển giao như thế nào là hoàn toàn phụ thuộc ý chí của bên nhận chuyển giao công nghệ. Khác với chuyển giao công nghệ, trong quan hệ nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền bắt buộc phải tuân thủ sự chỉ dẫn của bên nhượng quyền. Nếu trong chuyển giao công nghệ, các bên nhận chuyển giao công nghệ có thể có sự áp dụng khác nhau công nghệ được chuyển giao thì trong quan hệ nhượng quyền thương mại lại bắt buộc phải có sự tương đồng về sản phẩm của bên nhận quyền và sản phẩm của bên nhượng quyền cũng như của các bên nhận quyền với nhau, cả về hình thức, chất lượng và giá cả.

Câu hỏi 39: Các điều kiện để được kinh doanh dịch vụ giám định thương mại

            Theo quy định tại Điều 257 Luật Thương mại năm 2005, thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại phải có đủ các điều kiện sau đây: là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật; có giám định viên đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và có khả năng thực hiện quy trình, phương pháp giám định hàng hoá, dịch vụ theo quy định của pháp luật, tiêu chuẩn quốc tế hoặc đã được các nước áp dụng một cách phổ biến trong giám định hàng hoá, dịch vụ đó.

Câu hỏi 40: Trong hoạt động cung cấp dịch vụ giám định thương mại, giám định viên có cần xin cấp chứng chỉ hành nghề hay không?

            Theo quy định tại Điều 259 Luật Thương mại năm 2005, giám định viên phải có trình độ đại học hoặc cao đẳng phù hợp với yêu cầu của lĩnh vực giám định; có chứng chỉ chuyên môn về lĩnh vực giám định trong trường hợp pháp luật quy định phải có chứng chỉ chuyên môn và có ít nhất ba năm công tác trong lĩnh vực giám định hàng hoá, dịch vụ. Giám đốc doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giám định công nhận giám định viên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Như vậy, theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, giám định viên không cần xin cấp chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên trong một số lĩnh vực đặc thù ví dụ như: giám định viên sở hữu công nghiệp phải có thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp do Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ có thẩm quyền cấp theo quy định tại Thông tư 05/VBHN-BKHCN ngày 31 tháng 12 năm 2014 hướng dẫn việc cấp, thu hồi Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp và Giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp.

Câu hỏi 41: Nếu thương nhân cấp chứng thư giám định sai gây thiệt hại cho khách hàng thì thương nhân đó phải chịu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cho khách hàng như thế nào?

            Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình thì phải trả tiền phạt cho khách hàng. Mức phạt do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá mười lần thù lao dịch vụ giám định. Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định có kết quả sai do lỗi cố ý của mình thì phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho khách hàng trực tiếp yêu cầu giám định. (khoản 1, 2 Điều 266 Luật Thương mại năm 2005)

Câu hỏi 42: Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại có được uỷ quyền lại cho thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định khác thực hiện hợp đồng dịch vụ giám định với khách hàng không?

                  Thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại được uỷ quyền chỉ được uỷ quyền lại cho bên thứ ba nếu được bên uỷ quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Khi thực hiện việc uỷ quyền lại, hợp đồng uỷ quyền lại phải phù hợp với hình thức của hợp đồng uỷ quyền ban đầu và việc uỷ quyền lại không được vượt quá phạm vi uỷ quyền ban đầu. (Điều 15 Nghị định 20/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại)

Tham khảo thêmXác định tỷ lệ phần trăm thương tật trong vụ án hình sự

Câu hỏi 43: Chứng thư giám định thương mại có giá trị pháp lý như thế nào đối với các bên?

            Giá trị pháp lý của chứng thư giám định thương mại đối với các bên được quy định tại Điều 262:

Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc sử dụng chứng thư giám định của một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cụ thể thì chứng thư giám định đó có giá trị pháp lý đối với tất cả các bên nếu không chứng minh được kết quả giám định không khách quan, không trung thực hoặc sai về kỹ thuật, nghiệp vụ giám định.

            Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về việc sử dụng chứng thư giám định của một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cụ thể thì chứng thư giám định chỉ có giá trị pháp lý đối với bên yêu cầu giám định. Bên kia trong hợp đồng có quyền yêu cầu giám định lại.

            Khi chứng thư giám định lại có kết quả khác với chứng thư giám định ban đầu thì xử lý như sau:

  1. a) Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định ban đầu thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì kết quả của chứng thư giám định lại có giá trị pháp lý với tất cả các bên;
  2. b) Trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứng thư giám định ban đầu không thừa nhận kết quả của chứng thư giám định lại thì các bên thoả thuận lựa chọn một thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định khác giám định lại lần thứ hai. Kết quả giám định lại lần thứ hai có giá trị pháp lý với tất cả các bên.

Câu hỏi 44: Hợp đồng gia công trong thương mại có những đặc điểm gì

            Hợp đồng gia công trong thương mại là sự thoả thuận giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao.

Hợp đồng gia công trong thương mại có các đặc điểm sau:

– Chủ thể: chủ thể của quan hệ hợp đồng gia công trong thương mại gồm có bên nhận gia công và bên đặt gia công. Bên nhận gia công phải là thương nhân có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động gia công, còn bên đặt gia công có thể là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.

– Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá gia công. Tất cả các loại hàng hóa đều có thể được gia công, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh. Trường hợp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài thì hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

– Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. (Đ179 Luật Thương mại năm 2005).

– Nội dung của hợp đồng gia công là các điều khoản do các bên thoả thuận, quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng gia công.

Câu hổi 45: Những vi phạm nào là vi phạm pháp luật thương mại?

Điều 320 Luật thương mại 2005 quy định: Các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại bao gồm:

  1. a) Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
  2. b) Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh;
  3. c) Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
  4. d) Vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;

đ) Vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;

  1. e) Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hoặc nguyên liệu, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
  2. g) Vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
  3. h) Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
  4. i) Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng;
  5. k) Vi phạm quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu;
  6. l) Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;
  7. m) Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể hiểu hành vi vi phạm pháp luật thương mại bao gồm 2 nhóm:

– Nhóm các hành vi vi phạm chế độ quản lý nhà nước về thương mại 

– Nhóm các hành vi vi phạm chế độ pháp lý về hợp đồng thương mại.

Câu hỏi 46: Thế nào là chế tài thương mại?

Trả lời: Do hành vi vi phạm pháp luật thương mại bao gồm 2 nhóm là hành vi vi phạm chế độ quản lý nhà nước về thương mại  và hành vi vi phạm chế độ pháp lý về hợp đồng thương mại nên khái niệm chế tài thương mại được hiểu theo 2 góc độ:

         Theo nghĩa rộng: bao gồm mọi loại chế tài hành chính, chế tài dân sự, chế tài hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật thương mại diễn ra trong lĩnh vực thương mại.

         Theo nghĩa hẹp, chế tài thương mại là loại chế tài dân sự, được áp dụng đối với các vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thương mại, do vậy còn có thể coi chế tài thương mại theo nghĩa này là chế tài hợp đồng.

         Xuất phát từ các quan hệ thương mại mà Luật thương mại điều chỉnh, Luật thương mại năm 2005 đã quy định về chế tài thương mại theo nghĩa hẹp và chỉ bao gồm các chế tài hợp đồng.

Câu hỏi 47: Có phải mọi vi phạm pháp luật thương mại đều sẽ bị áp dụng chế tài thương mại hay không?

Trả lời: Không phải mọi hành vi vi phạm pháp luật thương mại đều sẽ bị áp dụng chế tài thương mại. Vì: theo quy định tại khoản 1 Điều 294 LTM năm 2005, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;
  2. b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng;
  3. c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
  4. d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Câu hỏi 48: Thế nào là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng?

Trả lời: Theo quy định tại Khoản 12 và 13 Điều 3 LTM 2005, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật thương mại.

            Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

Câu hỏi 49: Việc xác định hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng dựa trên các cơ sở pháp lý nào?

Trả lời: Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với các nghĩa vụ theo hợp đồng. Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm hợp đồng là việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng, các bên không chỉ phải thực hiện những nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

Vì vậy, cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi phạm hợp đồng là: Nội dung của hợp đồng có hiệu lực và các quy định pháp luật về hợp đồng.

Câu hỏi 50: Nếu nói chế tài thương mại là chế tài hợp đồng thì có đúng không? Vì sao?

Trả lời: Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, nếu nói chế tài thương mại là chế tài hợp đồng là đúng. Vì: Điều 292 LTM năm 2005 quy định các loại chế tài trong thương mại gồm: Buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, huỷ bỏ hợp đồng, các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. (Điều 297)

Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm. (Điều 300)

 Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. (khoản 1 Điều 302)

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của LTM, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. (Điều 308)

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của LTM, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:  Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. (Đ 310)

Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. (K1 Điều 312)

Câu hỏi 51: Chế tài thương mại được áp dụng trên cơ sở những căn cứ nào?

Trả lời: Căn cứ để áp dụng chế thương mại (chế tài hợp đồng) có thể bao gồm:

  1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
  2. Có thiệt hại thực tế;
  3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.

            Tuy nhiên, chế tài thương mại gồm nhiều loại, theo đó, mỗi loại chế tài thương mại khác nhau lại có căn cứ áp dụng khác nhau.

            – Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, chế tài phạt vi phạm hợp đồng, tạm ngừng  thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (xem các điều 297, 300, 308, 310, 312 – Luật Thương mại 2005)

            – Chế tài bồi thường thiệt hại được áp dụng khi :

                        – Có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng

                        – Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra

                        – Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế (Điều 302)

Câu hỏi 52: Có phải mọi hành vi vi phạm hợp đồng thương mại đều có lỗi hay không? Vì sao?

Trả lời: Trong điều kiện bình thường, do đặc thù về chủ thể của quan hệ hợp đồng thương mại thường là thương nhân, nên mọi hành vi vi phạm hợp đồng mặc nhiên đều bị coi là có lỗi (lỗi suy đoán). Chính vì vậy, quy định về chế tài thương mại trong Luật thương mại không quy định yếu tố lỗi là một trong các căn cứ áp dụng chế tài, song lại có quy định về các trường hợp miễn trách. Chỉ trong trường hợp, hành vi vi phạm hợp đồng xảy ra vì lý do bất khả kháng hay do lỗi của bên cùng quan hệ hợp đồng, hành vi vi phạm mới được coi là không có lỗi và được miễn trách nhiệm hợp đồng

Như vậy, có thể nói, không phải mọi hành vi vi phạm hợp đồng đều có lỗi. Theo quy định tại Điều 294 LTM năm 2005, những hành vi vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm do bên vi phạm hợp đồng  không có lỗi gồm: hành vi vi phạm hợp đồng do trường hợp bất khả kháng, hành vi vi phạm hợp đồng của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia, hành vi vi phạm hợp đồng của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.

Câu hỏi 53: Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng được thực hiện với những nội dung và nguyên tắc nào?

Trả lời: Theo quy định tại Điều 297 LTM 2005:

   * Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng hoặc thực hiện các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và phải chịu các chi phí phát sinh.

   * Nguyên tắc áp dụng: thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng đã hình thành theo hợp đồng.

   * Nội dung của chế tài:

   – Nếu Bên vi phạm hợp đồng là bên bán, bên cung ứng dịch vụ giao thiếu hàng hóa, cung ứng thiếu dịch vụ: buộc giao đủ, cung ứng đủ; Nếu giao hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, không theo thỏa thuận thì phải loại trừ khuyết tật, thiếu sót hoặc thay thế bằng hàng hóa, dịch vụ khác.

– Nếu bên vi phạm đã đáp ứng để giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ đúng theo hợp đồng thì bên bị vi phạm phải nhận hàng, dịch vụ. Nếu bên vi phạm không thực hiện, bên bị vi phạm có quyền sửa chữa hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch cùng các chi phí liên quan

   – Bên vi phạm hợp đồng là bên mua, thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong hợp đồng và trong pháp luật hiện hành.

Lưu ý:

   → Không được dùng tiền thay thế nếu không được bên bị vi phạm đồng ý.

   → Có thể gia hạn một khoảng thời gian hợp lý để bên vi phạm hợp đồng thực hiện nghĩa vụ. Trong thời gian thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng do bên bị vi phạm ấn định, nếu không có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng các chế tài khác ngoài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.

Câu hỏi 54: Tại sao nói phạt vi phạn hợp đồng là chế tài thương mại có mục đích “trừng phạt”?

Trả lời: Phạt vi phạm là chế tài thương mại có hai chức năng quan trọng:

Thứ nhất, phạt  vi phạm được coi là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng vì nhờ có phạt vi phạm, các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo đúng thoả thuận để tránh phải chịu phạt.

Thứ hai, phạt vi phạm được coi là chế tài thương mại có mục đích “trừng phạt”,vì: Theo quy định tại Điều 300 Luật Thương mại 2005, phạt vi phạm hợp đồng là chế tài theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định, ngay cả khi hành vi vi phạm hợp đồng chưa gây ra thiệt hại vật chất. Đó được coi là sự trừng phạt cho việc thực hiện HVVP HĐ của bên vi phạm.

Câu hỏi 55: Các bên có quyền tự do thoả thuận về mức phạt vi phạm hợp đồng thương mại hay không?

Trả lời: Các bên của hợp đồng được quyền thỏa thuận mức tiền phạt vi phạm, song đây là quyền tự do có giói hạn. Theo Điều 301 Luật Thương mại 2005, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận mức phạt trong hợp đồng nhưng vượt quá mức phạt được pháp luật quy định. Tuy nhiên, đối với phạt hợp đồng trong việc cấp chứng thư giám định có kết quả sai thì các bên có thể thỏa thuận mức phạt hợp đồng không vượt quá 10 lần thù lao dịch vụ giám định (Điều 266 LTM 2005).

Câu hỏi 56: Khi nào thỏa thuận mức phạt vi phạm hợp đồng thương mại trên 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm sẽ có hiệu lực pháp luật?

Nếu các bên trong thỏa thuận trên đều là thương nhân, điều khoản này sẽ không có hiệu lực pháp luật do trái quy định về mức phạt tối đa không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm tại Điều 301 LTM, trừ trường hợp hợp  đồng này là hợp đồng dịch vụ giám định (Điều 266 LTM 2005).

Nếu hợp đồng có một bên không phải là thương nhân và bên không phải là thương nhân chọn áp dụng Bộ Luật dân sự (2015) thì điều khoản này sẽ có hiệu lực pháp luật do Bộ Luật Dân sự không quy định giới hạn mức phạt tối đa.

Câu hỏi 57: Các căn cứ áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong quan hệ hợp đồng thương mại?

Trả lời: Các căn cứ để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại được quy định tại Điều 303 LTM 2005, bao gồm:

               – Có hành vi vi phạm hợp đồng;

               – Có thiệt hại thực tế;

               – Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại;

Trong những căn cứ đó, cần phải chứng minh thiệt hại thực tế, tính toán được những tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng

Câu hỏi 58: Theo quy định của pháp luật, chế tài phạt vi phạm hợp đồng và chế tài buộc bồi thường thiệt hại có gì khác nhau?

Trả lời: Sự khác nhau giữa chế tài phạt vi phạm hợp đồng và chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại biểu hiện ở các nội dung:

Phạt vi phạm Bồi thường thiệt hại
Mục đích,

Ý nghĩa

 Là chế tài được áp dụng nhằm nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng, mục đích trừng phạt – Là chế tài được áp dụng nhằm khôi phục, bù đắp những tổn hại về lợi ích vật chất của bên bị vi phạm
Điều kiện áp dụng – Có thỏa thuận áp dụng trong hợp đồng – Không cần có thỏa thuận áp dụng trong hợp đồng
Căn cứ áp dụng  

– Có hành vi vi phạm.

– Có hành vi vi phạm

– Có thiệt hại thực tế xảy ra

– Có Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại thực tế

Nguyên tắc áp dụng Tối đa không quá 8% phần hợp đồng bị vi phạm (trừ trường hợp quy định tại Điều 266 LTM 2005) Theo giá trị thiệt hại thực tế (có đủ chứng cứ chứng minh).
Bài viết liên quan