Khởi tố vụ án hình sự và ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự?

KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ Ý NGHĨA CỦA KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ?

1. Khái niệm khởi tố vụ án hình sự

Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.

Trường hợp không có dấu hiệu của tội phạm, cơ quan có thẩm quyền sẽ không tiến hành khởi tố vụ án hình sự.

Tham khảo thêm Bị can và bị cáo là gì? Phân biệt bị can và bị cáo trong tố tụng hình sự

2. Các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự

Theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:

– Tố giác của cá nhân;

– Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

– Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;

– Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;

– Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;

– Người phạm tội tự thú.

Như vậy, chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ nêu trên. 

3. Những căn cứ nào không được khởi tố vụ án hình sự?

Theo quy định tại Điều 157 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các trường hợp căn cứ không khởi tố vụ án hình sự gồm:
1. Không có sự việc phạm tội: Điều này ám chỉ rằng không có thông tin về tội phạm nào xảy ra hoặc các thông tin về tội phạm là không chính xác. Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm kiểm tra và đảm bảo rằng không có sự việc xảy ra như thông tin đã được báo cáo, hoặc rằng sự việc đó không có dấu hiệu của tội phạm.
2. Hành vi không cấu thành tội phạm: Điều này đề cập đến việc hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự. Cấu thành tội phạm bao gồm các yếu tố quan trọng cần có để xem xét việc xem hành vi đó là một tội phạm.
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm nghiêm trọng.
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật: Nguyên tắc không áp dụng án hai lần cho cùng một tội phạm, do đó, cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án hình sự đối với người mà hành vi của họ đã được xem xét và có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật.
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn quy định bởi BLHS cho việc tiến hành các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Khi hết thời hạn đó, người phạm tội không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
6. Tội phạm đã được đại xá: Đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt do Quốc hội quyết định, và nó ám chỉ sự tha hoàn toàn đối với một loạt người phạm tội đã phạm một hoặc một số loại tội phạm cụ thể. Tội phạm đã được đại xá là căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự.
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác: Mục đích của việc áp dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt là giáo dục và ngăn ngừa người phạm tội khỏi việc tái phạm. Do đó, nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, cơ quan có thẩm quyền không thể áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ, trừ khi có lý do đặc biệt để tái thẩm đối với người khác.
8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố
Các tội phạm mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan có thẩm quyền chỉ tiến hành tố tụng khi có yêu cầu từ phía bị hại hoặc người đại diện của bị hại.
4. Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
Theo khoản 1 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan điều tra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với tất cả vụ việc có dấu hiệu tội phạm, trừ những vụ việc do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiếm sát, Hội đồng xét xử đang thụ lý, giải quyết.

5. Các trường hợp phải từ chối hoặc thay người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp tại Điều 49 Bộ luật TTHS:

  • Đồng thời là bị hại, đương sự; là người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo;
  • Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
  • Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

6. Ý nghĩa khởi tố vụ án hình sự là gì ?

Khởi tố vụ án góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân. Nếu không thực hiện các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra, kể cả áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến nhiều trường hợp sau một thời gian điều tra không xác định được dấu hiệu của tội phạm, không chứng minh được người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế có hành vi nguy hiểm cho xã hội nên phải ra quyết định đình chỉ tố tụng thì người đó đã bị xâm phạm quyền tự do thân thể.

– Khởi tố vụ án xác lập cơ sở pháp lí để cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra. Chưa khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra, trừ một số hoạt động được tiến hành trọng quá trình giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Do đó, không thể xem khởi tố vụ án hình sự như một hoạt động trong giai đoạn điều tra. Khởi tố vụ án có nhiệm vụ riêng, chủ thể và các hoạt động tố tụng độc lập với các giai đoạn tố tụng khác nên được coi là giai đoạn tố tụng độc lập. Hoạt động điều tra chỉ được tiến hành sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Khởi tố vụ án tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Sau khi đã xác định dấu hiệu tội phạm và khởi tố vụ án, hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra sẽ tập trung làm rõ các hành vi phạm tội và người thực hiện tội phạm.

– Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.

Bài viết liên quan