Nhặt được tài sản bị đánh rơi sẽ xử lý như thế nào, quyền lợi của người nhặt được sẽ ra sao ?

NHẶT ĐƯỢC TÀI SẢN BỊ ĐÁNH RƠI SẼ XỬ LÝ NHƯ THẾ NÀO ?

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI NHẶT ĐƯỢC SẼ RA SAO ?

 

     Từ ngày xa xưa ông cha ta đã có câu “nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”, câu nói ấy vẫn được truyền lại từ đời này qua đời khác, có ý nghĩa giáo dục cao cũng như thể hiện đức tính và nghĩa cử vô cùng cao đẹp của nhân dân ta. Và trong thực tế hiện nay, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày chúng ta vẫn thường nhặt được tài sản của người khác bị quên hoặc đánh rơi. Vậy nhặt được tài sản bị rơi hoặc bị bỏ quên thì sẽ xử lý như thế nào, quyền lợi của người nhặt được sẽ ra sao? Hãy cùng Luật Việt Chính tìm hiểu qua bài viết dưới đây:

1. Quy định về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ

   Những tình huống nhặt được tài sản bị rơi, bị bỏ quên của người khác không hề hiếm gặp trong cuộc sống. Khi nhặt được tài sản người khác làm rơi, người nhặt được phải có trách nhiệm trả lại cho người bị mất.

   Theo quy định tại khoản 1 Điều 230 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc “Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên” như sau:

1. Người phát hiện tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc trả lại tài sản cho người đó; nếu không biết địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên thì phải thông báo hoặc giao nộp cho Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại.

Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc công an cấp xã đã nhận tài sản phải thông báo cho người đã giao nộp về kết quả xác định chủ sở hữu”.

   Như vậy theo quy định của pháp luật, trường hợp nhặt được của rơi nếu không tìm thấy người đánh rơi thì chúng ta có thể đến cơ quan Công an, UBND cấp xã gần nhất để trình báo.

   Khi đó, nếu sau 1 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản đánh rơi, bị bỏ quên đó mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được quy định tại khoản 2 Điều 230 Bộ luật dân sự 2015 và được xử lý như sau:

2. Sau 01 năm, kể từ ngày thông báo công khai về tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên mà không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận thì quyền sở hữu đối với tài sản này được xác định như sau:

a) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bỏ quên có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì người nhặt được được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp tài sản có giá trị lớn hơn mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định thì sau khi trừ chi phí bảo quản, người nhặt được được hưởng giá trị bằng mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định và 50% giá trị của phần vượt quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định, phần giá trị còn lại thuộc về Nhà nước;

b) Trường hợp tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản thuộc di tích lịch sử – văn hóa theo quy định của Luật Di sản văn hóa thì tài sản đó thuộc về Nhà nước; người nhặt được tài sản được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

   Trong trường hợp tài sản đó không thuộc sở hữu của ai thì theo quy định tài Điều 228 Bộ luật dân sự 2015 quy định về “Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu” thì xử lý như sau:

     – Sau 1 năm mà không xác định được ai là chủ sở hữu nếu tài sản là động sản thì người phát hiện tài sản là chủ sở hữu tài sản đó.

     – Sau 5 năm mà không xác định được ai là chủ sở hữu nếu tài sản là bất động sản thì bất động sản đó thuộc về Nhà nước; người phát hiện được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.

Tham khảo thêm: Tội trộm cắp tài sản là gì? Quy định của pháp luật?

2. Nếu nhặt được tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên mà không trả lại thì sẽ bị xử lý như thế nào ?

   Nếu nhặt được tài sản không trả lại mà tạm thời “bỏ túi”, người nhặt được tài sản có thể đối mặt với việc bị xử phạt hành chính hoặc nặng hơn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể:

 Xử phạt hành chính:

   Theo điểm đ khoản 2 Điều 15 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi “chiếm giữ tài sản của người khác” có thể bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

 Chịu trách nhiệm hình sự:

   Căn cứ theo quy định tại Điều 176 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổ, bổ sung 2017, quy định người nhặt tài sản của người khác cố tình không trả còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chiếm giữ trái phép tài sản:

1. Người nào cố tình không trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc không giao nộp cho cơ quan có trách nhiệm tài sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc dưới 10.000.000 đồng nhưng tài sản là di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị lịch sử, văn hóa bị giao nhầm hoặc do mình tìm được, bắt được, sau khi chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc cơ quan có trách nhiệm yêu cầu được nhận lại tài sản đó theo quy định của pháp luật, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội chiếm giữ tài sản trị giá 200.000.000 đồng trở lên hoặc bảo vật quốc gia, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

   Như vậy theo quy định trên, người nào cố tình không trả lại tài sản có giá trị từ 10 – dưới 200 triệu đồng hoặc dưới 10 triệu đồng nhưng là di vật, cổ vật/vật có giá trị lịch sử, văn hóa do mình tìm được, nhặt được sau khi đã được yêu cầu trả lại hoặc không giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền tài sản đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự:

  • Bị phạt tiền từ 10 – 50 triệu đồng.
  • Bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
  • Phạt tù từ 03 tháng – 02 năm.
  • Nếu tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng trở lên thì phải chịu mức phạt tù cao hơn, sẽ phải đi tù từ 01 – 05 năm.

   Như vậy, nhặt được tài sản không trả lại có thể bị xử phạt hành chính đến 5.000.000 đồng hoặc nặng hơn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự lên đến 05 năm tù.

3. Quyền lợi của người nhặt được tại sản bị đánh rơi, bị bỏ quên sẽ như thế nào?

   Không phải mọi trường hợp nhặt được tài sản bị bỏ rơi, đánh mất đều nhận được quyền lợi xứng đáng mà căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 230 Bộ luật Dân sự năm 2015, các trường hợp người nhặt được của rơi đem trả được nhận tiền thưởng gồm:

     – Tài sản nhặt được là di tích lịch sử, văn hóa. Khi đó, người nhặt được sẽ được hưởng tiền thưởng do Nhà nước trao tặng được quy định tại Điều 30 Nghị định 29/2018/NĐ-CP như sau:

         + Phần giá trị của tài sản đến 10 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 30%;

         + Phần giá trị của tài sản trên 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 15%;

         + Phần giá trị của tài sản trên 100 triệu đồng đến 1 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 7%;

         + Phần giá trị của tài sản trên 1 tỷ đồng đến 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 1%;

         + Phần giá trị của tài sản trên 10 tỷ đồng thì tỷ lệ trích thưởng là 0,5%;

   Giá trị của tài sản để trích thưởng được xác định sau khi trừ các Khoản chi phí theo quy định tại Khoản 3 Điều 29 Nghị định này.

   Như vậy, khi nhặt được tài sản bị rơi hay bỏ quên, nếu biết địa chỉ người làm rơi, người bỏ quên thì người nhặt được trả lại cho người đó; nếu không biết thì giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền. Chỉ khi sau 01 năm kể từ ngày giao nộpngười nhặt mới có thể được hưởng lợi từ tài sản bị đánh rơi, bỏ quên đó nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận.

     – Sau khi nhận được tài sản, chủ sở hữu tài sản tặng cho người nhặt được một số tiền thưởng nhất định. Số tiền thưởng trong trường hợp này sẽ do người nhặt được và chủ sở hữu của tài sản đó thỏa thuận với nhau.

     – Sau một năm kể từ ngày thông báo về việc nhặt được tài sản bị bỏ rơi, đánh mất mà không tìm được hoặc xác định được chủ sở hữu là ai thì người nhặt được có thể được hưởng một số tiền như sau:

        + Giá trị tài sản bị đánh rơi nhỏ hơn hoặc bằng 10 lần mức lương cơ sở (từ 01/7/2023, 10 lần mức lương cơ sở là 18,0 triệu đồng) thì người nhặt được sẽ được trở thành chủ sở hữu của tài sản đó.

        + Giá trị tài sản nhặt được lớn hơn 10 lần mức lương cơ sở (tương đương 18,0 triệu đồng tại thời điểm hiện tại) thì người nhặt được sẽ được nhận 10 lần mức lương cơ sở (tương đương 18,0 triệu đồng) và 50% giá trị của phần vượt quá 10 lần mức lương cơ sở sau khi đã trừ đi chi phí bảo quản. Số tiền còn lại sẽ thuộc về Nhà nước.

Bài viết liên quan