Bảo đảm quyền con người trong kiểm sát tạm, tạm giam Chương 2 Phần 2

Chương 2
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

2.3. HẠN CHẾ, TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, TỒN TẠI TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG KIỂM SÁT TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

2.3.1. Hạn chế, tồn tại

 Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên vẫn còn một số hạn chế, tồn tại trong bảo đảm QCN trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam của VKSND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, thể hiện ở hai góc độ là: hạn chế, tồn tại trong kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và hạn chế, tồn tại trong kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam.

– Thứ nhất, hạn chế, tồn tại trong kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam

Trong quá trình kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam của Cơ quan điều tra, VKS vẫn còn một số hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện quyền kiến nghị, vì thế chưa phát hiện và khắc phục kịp thời một số vi phạm trong việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam của Cơ quan điều tra như: cách tính và ghi thời hạn tạm giam trong lệnh tạm giam đôi khi chưa chính xác, không trừ thời hạn bị can đã bị tạm giữ trước đó; một số lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam, quyết định gia hạn tạm giữ (lần thứ nhất hoặc lần thứ hai) không ghi thời gian giao, không có chữ ký của người bị tạm giữ, tạm giam, hồ sơ đề nghị VKS phê chuẩn các lệnh, quyết định trên của Cơ quan điều tra chuyển sang không bảo đảm thời hạn quy định; một số lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam của Cơ quan điều tra khi đề nghị VKS phê chuẩn chưa nêu được căn cứ cụ thể mà chỉ ghi chung chung như: “căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”; “để phục vụ cho công tác điều tra mở rộng vụ án” hoặc “nhận thấy cần thiết phải tạm giam bị can, không gây cản trở, khó khăn cho quá trình điều tra”,… vì thế ảnh hưởng đến các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người bị tạm giữ, tạm giam.

– Thứ hai, hạn chế, tồn tại trong kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam

Theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Ngành, công tác kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam tại các cơ sở giam giữ phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, từ đó kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm của các cơ sở giam giữ nhằm bảo đảm việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam được thực hiện nghiêm chỉnh, chính xác, bảo đảm đầy đủ các chế độ và quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam. Trong những năm gần đây, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của VKSND huyện Hải Hậu ngày càng được nâng lên, tuy nhiên trong thực tiễn công tác vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, bao gồm:

+ Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra việc giải quyết vụ án hình sự, một số trường hợp khi tiến hành hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên không tiến hành ghi âm, ghi hình, đồng thời cũng không thông báo hay giải thích cho bị can lý do không thực hiện việc ghi âm, ghi hình cho bị can theo quy định của BLTTHS và Thông tư số liên tịch số 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP để bị can quyết định có đồng ý hay không đồng ý việc hỏi cung của Điều tra viên. Tuy nhiên, KSV đã không phát hiện kịp thời phát hiện vi phạm này để có biện pháp yêu cầu Cơ quan điều tra, Điều tra viên tiến hành khắc phục nhằm bảo đảm quyền của bị can đang bị tạm giam được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

+ Hoạt động kiểm sát các cơ sở giam giữ đòi hỏi phải được thực hiện hàng ngày nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm của cơ sở giam giữ trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, thực hiện chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam,…. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này còn chưa được thường xuyên, liên tục, đôi lúc còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao nên vẫn còn xảy ra một số vi phạm như: Giam chung các đối tượng trong cùng một vụ án, đối tượng tạm giữ với đối tượng tạm giam, người chưa thành niên với người thành niên; Một số trường hợp nhà tạm giữ chưa có hệ thống truyền thanh, truyền hình và chưa có cán bộ y tế riêng để kiểm tra thân thể, thực hiện việc khám sức khỏe và chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định; Một số trường hợp trích xuất ra để làm việc chưa cập nhật vào sổ trích xuất, chưa thông báo gửi cơ quan đang thụ lý vụ án trước khi hết thời hạn tạm giam,… Diện tích chỗ nằm của người bị tạm giam có thời điểm chưa bảo đảm đủ 2m2/ người. Những vi phạm này chưa được VKS phát hiện kịp thời và có biện pháp kháng nghị, kiến nghị để xử lý dứt điểm.

+ Công tác trực tiếp kiểm sát các nhà tạm giữ chưa thực sự chủ động, nặng về chỉ tiêu số lần trực tiếp kiểm sát trong năm nhưng không thực sự chú trọng về kỹ năng kiểm sát. Nội dung kiểm sát còn sơ sài, đơn điệu, mang tính hình thức, khuôn mẫu, không đổi mới về cách thức thực hiện dẫn đến chất lượng, hiệu quả của những lần trực tiếp kiểm sát chưa cao, chưa phát huy vai trò của VKS trong kiểm sát việc bảo đảm thực hiện các chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam tại các cơ sở giam giữ.

2.3.2. Nguyên nhân

2.3.2.1. Nguyên nhân khách quan

– Thứ nhất, Hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện: Mặc dù BLTTHS năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật được một thời gian, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện vẫn còn chưa thống nhất, đồng bộ, một số quy định về áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam chưa thực sự rõ ràng và phù hợp với thực tiễn, mang tính tùy nghi cao, phụ thuộc nhiều vào nhận thức của từng cơ quan và người tiến hành tố tụng, dẫn đến việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam trong một số thời điểm còn máy móc, tùy tiện, ảnh hưởng không nhỏ đến QCN của người bị tạm giữ, tạm giam.  Cụ thể như sau:

+ Quy định về quyền được hỏi của người bào chữa tại điểm b khoản 1 Điều 73 còn chung chung, chưa rõ ràng. Theo đó, người bào chữa “có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can”. Việc người bào chữa hỏi người bị tạm giữ, bị can bị tạm giam nhằm bảo đảm tính khách quan trong việc thu thập lời khai, góp phần làm sáng tỏ nội dung vụ việc bởi tâm lý chung ban đầu của những người bị buộc tội là luôn phản kháng, chối tội trước các cơ quan buộc tội và chỉ tin tưởng vào đội ngũ người bào chữa mà họ hoặc người nhà của họ yêu cầu thuê. Do đó, việc thiếu chủ động trong việc hỏi của những người bào chữa, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền lấy lời khai, hỏi cung sẽ ít nhiều gây khó khăn trong việc bảo vệ quyền lợi của người bị tạm giữ, tạm giam, khiến QCN của họ có nguy cơ bị xâm phạm.

+ Cách hiểu của các cơ quan tiến hành tố tụng về tính thời hạn tạm giữ chưa thống nhất, cụ thể: Trong khi Điều 118 BLTTHS quy định “thời hạn tạm giữ không được quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi tắt là cơ quan điều tra) nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú”. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cơ quan điều tra căn cứ theo quy định tại Điều 114 BLTTHSSau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Theo cách hiểu này thì các cơ quan điều tra có thêm thời hạn 12 giờ để ra Quyết định tạm giữ và thời hạn tạm giữ được tính từ lúc cơ quan điều tra ra Quyết định. Như vậy, việc không thống nhất trong nhận thức các quy định của pháp luật dẫn đến việc áp dụng các quy định vào thực tiễn không giống nhau khiến quyền tự do của người bị tạm giữ ít nhiều bị ảnh hưởng.

+ Theo quy định của Điều 119 BLTTHS, căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam còn chưa thực sự rõ ràng, mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào nhận định chủ quan của các Cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Do đó, tỷ lệ bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam tương đối cao, các BPNC khác như bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,… ít khi được áp dụng. Hiện nay, trong tâm lý, suy nghĩ của đa số mọi người, việc một người vì lý do nào đó mà bị tạm giữ, đặc biệt tạm giam là một rào cản rất lớn, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của họ, khiến họ rất khó lấy lại sự tự tin, thoải mái như trước để tiếp tục hòa nhập cộng đồng, thực hiện các công việc, hoạt động bình thường trước đây. Do vậy, việc lạm dụng BPNC tạm giam mà coi nhẹ các BPNC khác có thể ảnh hưởng xấu đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng như sự phát triển, tiến bộ, dân chủ của xã hội.

+ BLTTHS quy định về thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam vẫn chưa được thống nhất ở chỗ: thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra không trùng khớp nhau làm cho quá trình thực hiện tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng trong thực tiễn còn có nhưng khó khăn nhất định. Cụ thể, thời hạn tạm giam để điều tra đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng được quy định tại Điều 173 BLTTHS (kể cả thời hạn gia hạn) là không quá 03 tháng, không quá 05 tháng đối với loại tội nghiêm trọng, 07 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và không quá 12 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó thời hạn để điều tra được quy định tại điều 172 BLTTHS (kể cả thời hạn gia hạn) là 04 tháng đối với loại tội phạm ít nghiêm trọng, 08 tháng đối với loại tội phạm nghiêm trọng; 12 tháng đối với loại tội phạm rất nghiêm trọng; 16 tháng đối với loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, có thể thấy, thời hạn điều tra sẽ luôn dài hơn so với thời hạn tạm giam để điều tra. Do đó trong một số trường hợp vụ án có đồng phạm giúp sức, tuy nhiên vai trò của các bị can lại khác nhau và bị khởi tố ở hai tội danh khác nhau (một người thuộc loại tội nghiêm trọng, một người thuộc loại tội rất nghiêm trọng), theo quy định của pháp luật thì thời hạn điều tra sẽ được áp dụng theo loại tội phạm nặng nhất trong vụ án đó. Mặc dù cách hiểu trên có lợi trong việc giải quyết vụ án, tuy nhiên từ góc độ bảo đảm QCN của người bị tạm giam thì việc áp dụng thời hạn tạm giam trên ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của họ.

+ Theo quy định tại Điều 241 BLTTHS thì “sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, VKS có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này”. Điều luật này chưa đề cập cụ thể đến trường hợp vụ án có bị can đang bị tạm giam thì VKS cần phải xem xét, đánh giá các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam hay không để xác định có cần thiết tiếp tục tạm giam bị can hay áp dụng BPNC khác phù hợp hơn. Bởi lẽ, biện pháp tạm giam là BPNC mang tính nghiêm khắc nhất, tước bỏ nhiều QCN nhất của bị can, bị cáo, do đó việc áp dụng biện pháp này cần xem xét, đánh giá một cách cẩn trọng xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, trong đó có giai đoạn truy tố của VKS nhằm bảo đảm tốt nhất các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của bị can.

+ Điều 278 BLTTHS quy định: “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định…. 3. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa” [15].     

 Việc trao cho Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Hội đồng xét xử thẩm quyền mang tính tùy nghi, chưa rõ ràng là “quyết định” và “nếu xét thấy cần tiếp tục” để quyết định việp áp dụng biện pháp tạm giam sẽ dẫn đến tình trạng áp dụng tạm giam một cách máy móc, tùy tiện đối với bị can, bị cáo mà không xem xét đến tính có căn cứ và cần thiết của biện pháp này, ảnh hưởng không nhỏ đến các quyền của người bị tạm giam.

+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 329 BLTTHS, “trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành án thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo”. Một lần nữa các nhà làm luật lại sử dụng thuật ngữ “xét thấy cần tiếp tục” mang tính tùy nghi, dựa theo cách hiểu chủ quan của từng Hội đồng xét xử, là nguy cơ dẫn đến việc vi phạm các quyền của người bị tạm giam như đã phân tích ở trên.

– Thứ hai, về tình hình kinh tế – xã hội và tội phạm trên địa bàn huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định: Xuất phát từ đặc điểm kinh tế – xã hội của huyện Hải Hậu với dân số đông, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, tỷ lệ người lao động đi làm ăn, buôn bán ở những địa phương khác tương đối cao. Cùng với đó là số lượng các vụ án xảy ra trên địa bàn huyện có chiều hướng gia tăng qua từng năm, nhiều vụ án phức tạp. Do đó, để thuận lợi cho quá trình điều tra, ngăn chặn các đối tượng bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, các Cơ quan tiến hành tố tụng thường ưu tiên áp dụng BPNC có tính nghiêm khắc nhất là tạm giữ và tạm giam trong quá trình giải quyết vụ án, kéo theo số lượng người bị tạm giữ, tạm giam liên tục tăng qua từng năm. Trong khi đó, số lượng cán bộ, KSV làm nhiệm vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam có hạn, thông thường chỉ có 01 cán bộ, KSV phụ trách khâu công tác này, bao gồm kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam, đồng thời còn kiêm nhiệm một số công việc khác. Tình trạng này khiến việc kiểm sát tạm giữ, tạm giam của cán bộ, KSV có thời điểm còn chưa được thường xuyên, liên tục, gây áp lực không nhỏ đến việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, KSV, đặc biệt là việc kiểm sát chế độ, bảo đảm các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam tại các cơ sở giam giữ, làm giảm chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam, ảnh hưởng đến các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người bị tạm giữ, tạm giam.

– Thứ ba, về điều kiện cơ sở vật chất của cơ sở giam giữ: Cơ sở vật chất của các nhà tạm giữ trên địa bàn huyện Hải Hậu còn hạn chế, thiếu thốn dẫn đến một số chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam chưa được bảo đảm thực hiện đúng quy định, cụ thể:

+ Nhà tạm giữ Công an huyện Hải Hậu chỉ có 06 buồng tạm giữ và 06 buồng tạm giam, trong khi số lượng người bị tạm giữ, tạm giam tương đối nhiều khiến Nhà tạm giữ ở một số thời điểm bị quá tải. Có trường hợp người bị tạm giữ phải ở buồng tạm giam; tạm giữ chung người dưới 18 tuổi với người đủ 18 tuổi hay những đối tượng trong 01 vụ án vào cùng một buồng. Điều này dẫn đến tình trạng an ninh, an toàn không đảm bảo, ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm sinh lý của người bị tạm giữ, tạm giam;

+ Hệ thống rãnh thoát nước thải chưa đảm bảo, nước bị ứ đọng gây mất vệ sinh; một số buồng tạm giữ, buồng tạm giam bị ẩm thấp, dột nước, hệ thống điện, đèn chiếu sáng và cấp nước bị hỏng, không sử dụng được. Chưa trang bị hệ thống truyền thanh và chưa tổ chức cho người bị tạm giữ, tạm giam nghe đài phát thanh, đọc báo thường kỳ để tiếp cận, cập nhật thông tin bên ngoài đời sống xã hội.

+ Do hạn chế về kinh phí nên một số nhà tạm giữ chưa đáp ứng được chế độ ăn, ở của người bị tạm giữ, tạm giam theo quy định tại Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, ví dụ việc không tiến hành cấp phát các đồ dùng thiết yếu theo quy định, như: chăn, màn, khăn mặt…

 + Các nhà tạm giữ đều không có cán bộ y tế khiến việc khám, chữa bệnh cho người bị tạm giữ, tạm giam không được kịp thời. Một số nhà tạm giữ chưa tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho người bị tạm giữ; việc cấp phát tư trang cho người bị tạm giữ, tạm giam còn chưa bảo đảm chế độ theo quy định của pháp luật.

– Thứ tư, về điều kiện cơ sở vật chất trang bị cho ngành Kiểm  sát nhân dân: Điều kiện cơ sở vật chất trang bị cho đội ngũ cán bộ, KSV như kinh phí đi lại, phương tiện đi lại đến các cơ sở giam giữ còn nhiều khó khăn, chủ yếu là do các cán bộ, KSV tự túc, chủ động, trong khi chính sách về tiền lương dành cho đội ngũ cán bộ, KSV là rất hạn chế, gây ra trở ngại không nhỏ đến việc hoàn thành đầy đủ các nhiệm vụ đã được phân công trong công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm nghiệp vụ còn chưa được liên tục nên việc cập nhật những kiến thức mới, quan trọng về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam chưa được kịp thời.

2.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan

– Một là, về nhận thức, trách nhiệm, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, KSV. Một số cán bộ, KSV được giao nhiệm vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKS trong kiểm sát tạm giữ, tạm giam; chưa nghiên cứu, nắm vững các quy định của pháp luật về áp dụng các BPNC tạm giữ, tạm giam và quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; một số thời điểm còn có biểu hiện chủ quan, đơn giản hóa các thủ tục; tinh thần trách nhiệm trong công việc và năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, KSV còn chưa cao. Do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam nói chung, ảnh hưởng đến các QCN của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng.

– Hai là, về công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, rút kinh nghiệm của lãnh đạo. Có thời điểm, lãnh đạo phụ trách công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam còn chưa sâu sát trong việc quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối với cán bộ, KSV được giao nhiệm vụ thực hiện công tác này. Việc hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, rút kinh nghiệm của lãnh đạo cho cán bộ, KSV còn chưa được thường xuyên, liên tục. Từ đó dẫn đến tâm lý ỉ lại, thiếu tập trung trong công việc của cán bộ, KSV trong một số thời điểm nhất định, làm hạn chế khả năng và chưa phát huy được hết năng lực của cán bộ, KSV khi thực thi nhiệm vụ, ảnh hưởng đến chất lượng kiểm sát việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam cũng như việc thi hành tạm giữ, tạm giam trên thực tế, không đáp ứng được yêu cầu quản lý giam giữ trong tình hình mới.

Ba là, về công tác phân công, sắp xếp, bố trí lực lượng cán bộ, Kiểm sát viên của lãnh đạo. Việc phân công, bố trí nhân lực của lãnh đạo trong đơn vị đôi lúc còn chưa phù hợp với trình độ năng lực, sở trường công tác của từng cán bộ, KSV; hoặc một số thời điểm cán bộ, KSV phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau nhưng lãnh đạo đơn vị không linh động trong việc bố trí, sắp xếp công việc dẫn đến tình trạng KSV không tập trung năng lực vào các nhiệm vụ được phân công, làm giảm chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam.

– Bốn là, về mối quan hệ phối hợp giữa VKSND các cấp và giữa VKS với các cơ quan pháp luật có liên quan (Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc). Sự phối hợp giữa VKS với Cơ quan điều tra và Tòa án trong việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam có thời điểm còn chưa tốt, một số trường hợp chưa có sự thống nhất về việc áp dụng BPNC; cách tính thời hạn tạm giữ; căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam; việc gia hạn tạm giữ, tạm giam,… Ngoài ra, trong công tác phối hợp giữa VKSND huyện Hải Hậu với VKSND các cấp và giữa Viện kiểm sát với các cơ quan pháp luật có liên quan như Cơ quan thi hành án hình sự, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp đôi lúc cũng còn chưa chủ động và thiếu chặt chẽ; một số thời điểm phát sinh vướng mắc hoặc sự việc mới nhưng các ngành chưa chủ động thống nhất, trao đổi để tháo gỡ, giải quyết, gây khó khăn cho VKS trong công tác kiểm sát việc thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ sở giam giữ khiến chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát trong một số thời điểm còn chưa cao, ảnh hưởng đến việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam.

Tiểu kết Chương 2

Trên cơ sở những quy định tiến bộ của Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 về vấn đề quyền con người, VKSND đã có những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam và việc bảo đảm các chế độ cho người bị tạm giữ, tạm giam. Từ đó, công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam luôn được ngành KSND nói chung và tập thể lãnh đạo, cán bộ, Kiểm sát viên VKSND huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định nói riêng quan tâm, chú trọng thực hiện nhằm góp phần bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Mặc dù vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định, nhưng nhìn chung công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của đơn vị trong những năm gần đây đã đạt được những kết quả tích cực, chất lượng bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam ngày càng được nâng lên, không có trường hợp nào áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam không có căn cứ; chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam được bảo đảm thực hiện đầy đủ, không xảy ra vi phạm nghiêm trọng, không phát sinh khiếu nại, tố cáo trong công tác thi hành tạm giữ, tạm giam. Trong thời gian tới, VKSND huyện Hải Hậu sẽ tiếp tục phát huy những ưu điểm đã đạt được trong công tác kiếm sát tạm giữ, tạm giam, đồng thời nghiên cứu, làm rõ từng hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhằm đưa ra những giải pháp, cách thức phù hợp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, góp phần bảo đảm tốt hơn nữa QCN của người bị tạm giữ, tạm giam trên địa bàn huyện nhà.

Theo Ths.Kểm sát viên Vũ Minh Hải

Bài viết liên quan